Trực Chỉ Nhân Tâm hay
Trực Chỉ Chân Tâm? 5
(Kết Luận)
Lê Anh Chí
__________________________________________
Dàn Bài :
I) Thiền Sư Nguyệt Khê khi
giảng Bài Kệ chỉ nói Chân Tâm Phật Tánh...
II) Cả 4 bài đều đúng ở
một điểm
III) Bài 2 : Minh Tâm, có lư !
IV) Bài 4 : giải quyết
được vấn đề
V) Bài 1 : Vọng Tâm và Trực
Chỉ tùy căn cơ ?
VI) Bài 3 : Nên vất "Nhân Tâm" ra khỏi "Trực Chỉ" ?
__________________________________________
Bài kệ của Tổ Đạt
Ma :
Ngoài giáo
truyền riêng
Chẳng
lập văn tự
Chỉ
thẳng nhân-tâm / Chỉ
thẳng Chân Tâm
Kiến
Tánh Thành Phật
Với câu 3 có thể là :
Chỉ
thẳng nhân-tâm (Trực Chỉ Nhân Tâm)
hay
Chỉ
thẳng chân-tâm (Trực
Chỉ Chân Tâm)
Là một vấn
đề tranh luận của nhiều Phật tử
Thiền Tông, Tôi đă viết 4 bài đoản luận
về vụ này. Bài này tổng kết 4 bài đoản
luận ấy và đưa ra những nhận xét : a) Bài 4 đă giải quyết được vấn
đề "Trực Chỉ Nhân Tâm hay Trực Chỉ Chân Tâm" b) những
ưu/khuyết điểm của bài 1, 2, 3.
Bài liên quan :
32) Bài 1 :
Trực Chỉ Nhân Tâm hay Trực Chỉ Chân
Tâm ?
54) Bài 2 : Trực Chỉ. . . MINH Tâm !
(
Trực
Chỉ Nhân Tâm hay Trực Chỉ Chân Tâm ? [2] )
81) Bài 3 : Phải vất ‘‘nhân tâm’’ ra khỏi
‘‘Trực chỉ’’ (để tránh hiểu lầm)
(
Câu thứ ba của
bài kệ là ‘‘Trực chỉ Chân-tâm’’ hoặc
‘‘Trực chỉ minh tâm’’
136) Bài 4 : Trực Chỉ Nhân Tâm hay Trực Chỉ
Chân Tâm ? 4
( Bài này đưa ra một nghĩa khác của ‘‘nhân tâm’’, dùng những
phân tích từ ngữ trong Quân Tử Thành Mỹ của
Cúc Hiên Tiên Sinh Hội-nguyên Lê Đ́nh Diên 2 ... )
NKts = Thiền Sư Nguyệt Khê =
Nguyệt Khê Thiền Sư
Bài Kệ = Bài kệ của Tổ
Đạt Ma
I) Thiền Sư Nguyệt Khê khi giảng Bài Kệ
chỉ nói Chân Tâm Phật Tánh...
a) Tiểu sử Thiền Sư Nguyệt Khê :
Sư húy Tâm Viên, hiệu Nguyệt Khê,
họ Ngô, tổ tiên là người Tiền
Đường tỉnh Triết Giang, lập nghiệp
ở Côn Minh tỉnh Vân Nam, truyền được ba
đời đến Sư, Sư yếu đuối
nhưng thích học, sớm đă thông minh đĩnh
ngộ, theo học Nho với Uông Duy Dần tiên sinh. Năm
12 tuổi đọc Lan Đ́nh Tập Tự đến
câu "Tử sanh là việc lớn, há chẳng đau
khổ ư ?", mới hỏi thầy rằng : - Làm
thế nào có thể sanh chẳng tử được
? Uông tiên sinh bảo phải hỏi nhà
Phật-học.
Bèn đến hỏi nhà
Phật-học, do đó được các kinh Bốn
Mươi Hai Chương và kinh Kim Cang. Từ đó
học ở Thượng Hải, Sư kiêm thêm Phật-học,
cũng chuyên tâm nghiên cứu các sách của Lăo Trang, xem
hết Lục Kinh của nhà Nho, tham học hết các danh
sư ở Giang Tô, Triết Giang, lễ bái các
Đại-đức, tŕnh câu hỏi "Dùng cách nào
mới có thể minh Tâm kiến Tánh", nhưng Sư
đều không khế hợp với các câu trả lời.
Bấy giờ Tôn-túc Diệu Trí dạy hăy
khán-thoại-đầu "Niệm Phật là ai ?" và
nghiên cứu Đại Trí Độ Luận.
Năm 19 tuổi, Sư xuất gia,
lễ Tỉnh An Ḥa-thượng ở nơi đó xin
xuống tóc thọ Đại-giới. Vừa xuất-gia
đă tinh tiến dũng mănh, nơi Phật tiền
đốt hai ngón út và áp út tay trái, cùng cắt miếng
thịt to bằng bàn tay, trên đó đốt bốn
mươi tám liều cúng dường Phật, phát ba
đại nguyện. Mỗi ngày trừ việc xem Kinh ra, Sư
c̣n tụng Phật hiệu năm ngàn tiếng, luôn tụng
Hoa Nghiêm, Niết-bàn, Lăng Nghiêm. Lúc rănh rỗi có khóa
lễ bái kinh Viên Giác
Sư ông của Sư dạy khán câu
thoại-đầu "Muôn pháp về một, một
về chỗ nào ?" và trao cho Truyền Đăng
Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên, Chỉ Nguyệt
Lục; Sư xem thấy có cái biết có cái không. Sư
về sau theo Ngộ Tham Pháp-sư học giáo lư của các
tông Thiên Thai, Hiền Thủ, Từ Ân.
Năm 22 tuổi liền ra giảng
Kinh thuyết Pháp, thính giả rất đông. Đáp lời
mời của Pháp-hội Lăng Già ở Nam Kinh, Sư
giảng kinh, có Tôn-túc Khai Minh hỏi rằng : "Vọng
niệm dứt là Phật-tánh, vọng niệm khởi là
chúng sanh, vậy thành Phật cũng có luân hồi ư
?", Sư không trả lời được. Sư
đảnh lễ Tôn-túc, hỏi "Dùng cách nào mới có
thể minh Tâm kiến Tánh ?"
Tôn-túc bảo : Lời này Pháp-sư nên đến
hỏi Tông-sư Thiết Nham ở Ngưu Đầu
sơn là người đă chứng-ngộ. Ngay đêm
ấy, Sư đến hỏi Thiết Nham và
được dạy : Ông chớ nên dứt vọng
niệm, nên dùng nhăn căn nh́n
thẳng vào chỗ hầm sâu đen tối chẳng
trụ hữu vô ấy, đi, đứng, nằm,
ngồi chẳng được gián đoạn, khi nhân
duyên đến, "ồ" lên một
tiếng, hầm sâu đen tối của vô minh tan ră th́
được minh Tâm kiến Tánh. Sư nghe lời này
như uống nước cam lồ, từ ấy ngày
đêm khổ tham, h́nh dung tiều tụy, ốm như cây
củi, một đêm nghe
tiếng gió thổi lá cây ngô đồng bỗng hoát nhiên
chứng ngộ, mồ hôi ra như tắm, rằng
"ồ là vậy, là vậy ! Chẳng xanh chẳng trắng
cũng chẳng tham-thiền, cũng chẳng niệm
Phật, cũng chẳng sanh tử đại sự,
cũng chẳng vô thường tấn tốc". Nh́n
ra ngoài cửa sổ chính là vào canh tư, trăng treo trên
nền trời xanh tít không gợn chút mây.
Mấy ngày sau Sư đến
Thiết Nham, đem sở ngộ tŕnh Thiết Nham. Nham
bảo : Ông chứng
ngộ rồi, nay ta ấn chứng cho, ông có thể đem Truyền Đăng Lục để
ấn chứng thêm. Đại
sự ông đă xong, có nhân duyên th́ thuyết Pháp độ
sanh, chẳng nhân duyên có thể tùy duyên qua ngày.
Từ đó về sau, Sư giảng
Kinh thuyết Pháp đều trong Tự-tánh nói ra, chẳng
xem chú giải của người khác. Sư đăng
Đàn thuyết Pháp liên tiếp mấy chục năm,
giảng Kinh hơn hai trăm năm mươi Hội,
cứ một Kinh là một Hội. Sư hành cước
các nơi như Chung Nam, Thái Bạch, Hương Sơn, Hoa
Sơn, Nga Mi, Cửu Hoa, Phổ Đà, Ngũ Đài, Thái
Sơn, Hoàng Sơn, Vơ Đang, Lư Sơn, Mao Sơn,
Mạc Can, Lao Sơn, Hằng Sơn, La Phù Sơn. Mỗi
khi hành cước nơi rừng sâu núi cao mấy tháng quên
về, đến danh sơn nào cũng có thi đối.
Sư phó chúc đệ-tử rằng
: Tứ Đại theo nhân duyên, có sanh ắt có diệt;
Tự-tánh vốn vô sanh, vô sanh cũng vô diệt. Nay nói có
sanh ắt có diệt là tứ Đại phải có chỗ
về. Chỗ về chọn trên đỉnh Bảo Mă
Sơn, sau làng Đỗ Gia Dinh, ngoài cửa nam thành phố
Côn Minh nh́n xuống, ngay hồ Côn Minh làm Cao-ngọa-xứ.
Suốt đời Sư chưa
độ một đệ-tử xuất-gia,
đệ-tử tại-gia hơn 160.000 người. Sư
tùy theo căn cơ đệ-tử mà dạy tu Pháp-môn khác
nhau, trong đó tham-thiền ngộ đạo có tám
người : Ngũ Đài Tịch Chơn, Minh Tịnh Tôn
Túc, Cư-sĩ Lư Quảng Quyền ở Bắc B́nh,
Cư-sĩ Chu Vận Pháp ở Thượng Hải, c̣n
bốn người đă qua đời từ trước.
Trụ tŕ chùa Vạn Phật ở Sa
Điền là Nguyệt Khê thiền-sư viên tịch
năm 1965, lúc 21 giờ, ngày 23 tháng 4 Âm lịch, trụ thế 87 năm. Sau
khi Sư tịch, các đệ-tử đem nhục thân của Sư
thiếp vàng, thờ trong điện Phật A-di-đà.
(Tức là, Nguyệt Khê thiền-sư
có để lại nhục thân bất hoại)
b) Thiền Sư Hư Vân, Nguyệt Khê và Lai Quả là ba vị sư thời cận đại,
được mọi người hoặc hầu hết
mọi người công nhận là đă Kiến Tánh.
Thiền Sư Hư Vân lớn tuổi nhất và trụ
thế lâu nhất (120 tuổi)
c) Thiền Sư Nguyệt Khê khi giảng Bài Kệ
chỉ nói Chân Tâm Phật Tánh, không hề nói
đến vọng tâm, mặc dù khi thuyết Bài kệ của Tổ Đạt Ma , thiền
sư dùng chữ "nhân-tâm" ...
=== === Cội NGUồN TRUYỀN THỪA và PHƯƠNG PHÁP TU TR̀ CỦA
THIỀN TÔNG (của Thiền Sư Nguyệt Khê) :
... Định nghĩa của Thiền
Đốn Ngộ là "Chẳng lập văn tự,
chỉ thẳng tâm
người, thấy tánh thành Phật". Tại sao
phải chỉ thẳng tâm người, chẳng lập
văn tự? V́ văn tự là một tên gọi giả
danh, phải qua suy nghĩ rồi mới có thể biểu
hiện ra, nên chỉ là một việc gián tiếp, c̣n bản thể của chơn tâm
(cũng gọi là tự tánh) là một thực tế
rốt ráo, cảnh giới ấy chẳng
dùng kinh nghiệm suy nghĩ mà
đến được, vậy cách gián tiếp ngôn
ngữ văn tự, tự nhiên chẳng có cách để
diễn tả. Nên Phật Thích Ca nói "Ta thuyết pháp 49
năm, chưa từng nói một chữ", lại nói
"Kinh giáo liễu nghĩa như ngón tay chỉ mặt
trăng, nếu thấy được mặt trăng th́
biết ngón tay chẳng phải mặt trăng"...
... Phương pháp trực tiếp biểu thị Phật Tánh này,
Phật Thích Ca đă dùng qua nhiều lần, cũng như
Thế Tôn đem hạt châu Ma Ni Tùy Sắc hỏi Ngũ
Phương Thiên Vương rằng: Hạt châu này màu ǵ?
Khi ấy Ngũ Phương Thiên Vương tùy sự
thấy của ḿnh đều trả lời màu sắc khác
nhau ...
...Việc giấu hạt châu rồi
đưa tay và im lặng giây lâu đều là phương
pháp trực tiếp chỉ
thị bản thể của Chơn tâm, chẳng
phải chỉ có một việc "Niêm hoa thị
chúng" mà thôi!
... 5- Thiền Tông Truyền Từ
Tổ Đạt Ma.
...Xem qua lời vấn đáp của
tổ Đạt Ma đều là pháp chỉ thị Phật tánh,thẳng vào cội
nguồn Bản thể.
=== ===
Chú Thích, Nhận xét :
a)Trong những đoạn trích dẫn
kể trên, ta thấy rằng NKts chỉ nói đến Chân Tâm Phật Tánh,
trực chỉ Chân Tâm Phật Tánh :
"bản thể của chơn tâm
(cũng gọi là tự tánh)" là một thực
tế rốt ráo
"trực tiếp biểu thị
Phật Tánh"
"trực tiếp
chỉ thị bản thể của Chơn tâm"
"pháp chỉ thị Phật
tánh,thẳng vào cội nguồn Bản thể"
b) NKts hoàn hoàn không nói ǵ về trực
chỉ Vọng Tâm
c) Điều này có nghĩa là,
đối với NKts, "Chỉ
thẳng nhân-tâm" không có nghĩa là "trực
chỉ Vọng Tâm" , mà là "trực tiếp
chỉ thị bản thể của Chơn tâm".
Tức là, đối với NKts "nhân-tâm" không có nghĩa là Vọng Tâm.
Sở dĩ nói đến chuyện
"trực
chỉ Vọng Tâm", là v́ đa
số những người chủ trương câu 3 Bài
Kệ là "Chỉ thẳng nhân-tâm", họ nghĩ rằng "nhân-tâm" là "Vọng Tâm" và do
đó, "Chỉ thẳng nhân-tâm" là "Chỉ thẳng vọng-tâm" ! Riêng tôi nghĩ rằng chuyện "Chỉ thẳng vọng-tâm" là chuyện nực cười trong thiên
hạ !
II) Cả 4 bài đều đúng ở một
điểm
Tôi đă viết 4
bài đoản luận về vụ này (Trực Chỉ Nhân Tâm
hay Trực Chỉ Chân Tâm). Cả 4 bài đều đúng ở
một điểm, đó là : Đối tượng của Trực Chỉ bao giờ cũng là Chân
Tâm !
Tại sao ? _-Bởi v́ : Vọng tâm là cái thá ǵ mà phải trực
chỉ ?
Thật
vậy, Vọng tâm nằm ch́nh ́nh trong tâm ta, trong
đầu óc ta, rất dễ thấy, rất dễ
hiểu, nào phải cần ai trực chỉ ? nào phải
cần Tổ Thiền Tông trực chỉ ? Vả lại,
được "Trực Chỉ Vọng Tâm"
rồi, làm sao có thể Kiến Tánh (là chứng ngộ Chân Tâm) ?
III) Bài 2 : Minh Tâm, có lư !
Bài 2
( Trực Chỉ. . . MINH Tâm ! ( Trực Chỉ Nhân Tâm hay
Trực Chỉ Chân Tâm ? [2] ) nói rằng câu thứ 3
của Bài Kệ có thể là
Trực Chỉ Minh Tâm
có lư !
a) chữ MINH là
động từ :
MINH Tâm = làm sáng cái tâm
Trực Chỉ MINH Tâm = Trực Chỉ, làm sáng
cái tâm
a1) tâm = vọng
tâm
Trực Chỉ MINH Tâm = Trực Chỉ, làm sáng
vọng tâm
Muốn làm sáng vọng tâm th́ làm Chân Tâm hiển
lộ.
(Chân Tâm hiển lộ th́ là Kiến Tánh)
Do đó,
Trực Chỉ
MINH Tâm = Trực Chỉ, làm Chân Tâm hiển lộ
a2) tâm = chân tâm
Trực Chỉ MINH Tâm = Trực Chỉ, làm sáng
Chân Tâm
Chân Tâm th́ dĩ nhiên đă tự sáng. Vậy,
làm sáng Chân Tâm có nghĩa là làm Chân Tâm hiển lộ.
Do đó,
Trực Chỉ
MINH Tâm = Trực Chỉ, làm Chân Tâm hiển lộ.
b) chữ MINH là tĩnh từ :
MINH Tâm = cái tâm sáng = Chân Tâm
Trực Chỉ MINH Tâm = Trực Chỉ Chân Tâm
Như vậy, Trực Chỉ MINH Tâm là
Trực Chỉ Chân Tâm; không những thế , c̣n thêm ư
nghĩa ‘làm sáng tâm’ của sự Kiến Tánh.
Xem
IV) Bài 4 : giải quyết được vấn
đề Trực Chỉ Chân Tâm/Nhân Tâm
Bài 4 (
Trực Chỉ Nhân Tâm hay Trực Chỉ
Chân Tâm ? 4 ) đă định
nghĩa Nhân Tâm
đúng ! do đó đă giải
quyết được vấn đề "Trực Chỉ Chân Tâm hay Trực Chỉ Nhân
Tâm"
Đa số mọi người
đều cho rằng nghĩa của ‘‘nhân tâm’’ là vọng tâm :
nhân
tâm =
ḷng người
= ḷng con người
= tâm con người
= vọng tâm
(đối lại với Chân
tâm =
Phật Tánh)
Bài 4 đưa ra nghĩa khác của
‘‘nhân tâm’’ : nhân không phải là con người, mà là
người (khác), là người (chẳng phải là ta)
Do đó,
nhân
tâm =
tâm người (khác)
Trong việc truyền đạo,
vị Tổ truyền đạo cho người (khác),
tức là truyền đạo cho người học
tṛ :
nhân
tâm =
tâm người học tṛ
=
tâm của người học tṛ
Trực Chỉ Nhân Tâm = Trực Chỉ Tâm của người học tṛ
= Trực
Chỉ Chân Tâm của người học tṛ
Tại sao Chân
Tâm mà không là Vọng Tâm ? _-Bởi v́ Vọng Tâm là cái thá ǵ mà phải trực chỉ ???
Với diễn nghĩa này của
‘‘trực chỉ nhân tâm’’, ta thấy rằng ‘Trực
Chỉ Nhân Tâm’ cũng đúng ! bởi v́ thật ra là cùng
nghĩa với ‘Trực Chỉ Chân Tâm’
Xem
133) Cúc Hiên Tiên Sinh Hội-nguyên Lê Đ́nh Diên 2
136) Bài 4 : Trực Chỉ Nhân Tâm hay Trực Chỉ Chân
Tâm ? 4
Định nghĩa Nhân Tâm như vậy
là đúng rồi ! Do đó ta thấy, trong phần
(I) : Thiền Sư Nguyệt Khê khi
giảng Bài Kệ chỉ nói Chân Tâm Phật Tánh, không hề nói
đến vọng tâm, mặc dù khi thuyết Bài kệ của Tổ Đạt Ma , thiền
sư dùng chữ "nhân-tâm". Điều này có nghĩa là, đối với
NKts, "Chỉ thẳng nhân-tâm" không có nghĩa là "trực chỉ Vọng Tâm" , mà là "trực tiếp
chỉ thị bản thể của Chơn tâm".
Tức là, đối với NKts "nhân-tâm" không có nghĩa là Vọng Tâm.
Thiền Sư Nguyệt Khê giảng
Bài Kệ như vậy, phù hợp với những
điều VỪA NÓI Ở TRÊN :
Trực Chỉ Nhân Tâm = Trực
Chỉ Tâm của người học tṛ
= Trực
Chỉ Chân Tâm của người học tṛ
Chú Thích, Nhận xét :
Người Tàu không có vấn
đề với chữ "nhân-tâm", họ thừa biết rằng
nhân
tâm =
tâm người (khác)
=
tâm người học tṛ
= Chân Tâm của người học tṛ
Cho nên, nói "Trực
Chỉ Nhân Tâm" mà không giải thích, như
Thiền Sư Nguyệt Khê
ở phần (I)
Ngày xưa, người Việt
học chữ nho từ thưở c̣n thơ, đọc
sách chữ nho nhiều, nên cũng không có vấn đề
với chữ "nhân-tâm". Sách thiền ngày xưa để lại,
cũng không hề giải thích "Trực
Chỉ Nhân Tâm".
Chỉ có chúng ta ngày nay là có vấn đề , hầu
hết mọi người đều tưởng rằng
"nhân-tâm" là
vọng tâm ! "Trực Chỉ
Nhân Tâm" lầm tưởng là "Trực Chỉ Vọng Tâm" làm sai bét ư nghĩa Bài Kệ !
V) Bài 1 : Vọng
Tâm và Trực Chỉ tùy căn cơ ?
Khi viết Bài 1 ((32) Trực
Chỉ Nhân Tâm hay Trực Chỉ Chân Tâm ? )
tôi cũng bị vướng vào cái ư
tưởng rằng "nhân-tâm" là vọng tâm. Nhưng v́ tôi không chấp nhận
"Trực Chỉ Vọng Tâm", nên tôi giải thích Trực Chỉ Nhân Tâm là Trực Chỉ tùy theo căn cơ của người học tṛ.
Viết như vậy, th́ đă
vớt vát được phần nào cái sai lầm của
"nhân-tâm là vọng
tâm"
VI) Bài 3 : Nên vất "Nhân Tâm" ra khỏi "Trực Chỉ" ?
V́ "Nhân Tâm"
thường bị hiểu là vọng tâm , cho nên ta nên
vất "Nhân Tâm" ra khỏi "Trực Chỉ".
Xem
Bài 3 (81) : Phải vất ‘‘nhân tâm’’ ra khỏi
‘‘Trực chỉ’’ (để tránh hiểu lầm)
Cái lư là như vậy, là vất "Nhân Tâm" ra khỏi "Trực Chỉ". Nhưng
sự việc này khó có thể làm được, v́ :
_- Người Tàu không có vấn
đề với chữ "nhân-tâm", nên tất không bằng ḷng
_- Người Việt cũng có
nhiều kẻ không bằng ḷng, trong đó có cả
những kẻ chấp nhận "Trực
Chỉ Vọng Tâm", cho rằng "Trực Chỉ Vọng Tâm" là chân lư !
*
*
* Lê Anh Chí *.
_____________
Kinh sách tham khảo
Kinh :
Kinh Đại Bát Niết Bàn,
dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh Đại Bát Niết Bàn,
Kinh Trường Bộ (Nhị Thừa),dịch giả
Thích Minh Châu
Đại
Thừa Kim Cang Kinh Luận
Cuộc đời Đức
Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán
Kinh Kim Cang,
dịch giả Đoàn Trung C̣n
Kinh Kim Cang,
dịch giả Thích
Trí Tịnh
Kinh Kim Cang và
Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú giải : Thích Huyền
Vi
Kinh Kim Cang,
dịch giả Thích
Duy Lực
Kinh Kim Cang,
dịch giả Thích
Thiện Hoa
Kinh Lăng Nghiêm, dịch giả Trí Độ và Tuệ Quang
Kinh
THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG, dịch giả Thích Nhẫn Tế
Kinh Trường A Hàm, dịch giả Thích Thiện Siêu
Kinh Trường Bộ
(Nhị Thừa),dịch giả Thích Minh Châu
Kinh
Vô Ngă Tướng, dịch
giả Phạm Kim Khánh
Pháp Trích Lục, Huỳnh
văn Niệm trích lục.
Ngữ Lục (đến đời Lục Tổ):
Sáu cửa Thiếu Thất,
Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy Lực
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh
Trực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác, dịch
giả Trúc Thiên
Ngữ Lục (sau đời Lục Tổ):
Bá Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy Lực
Truyền Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch
giả Thích
Duy Lực
Cội
nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của
thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn
tâm trực thuyết, Phổ Chiếu
Lâm Tế Ngữ Lục
Thiền Đốn Ngộ,
nhiều tác giả : Huyền Giác, Huệ Hải,
Thạch Thành Kim, Oánh Sơn,
Hư Vân; dịch giả Thích Thanh Từ
Tọa Thiền Luận,
Đại Giác, dịch giả Như Hạnh
Tu tâm
quyết, Phổ Chiếu
Sách :
Tứ
Diệu Đế, Thích Thiện Hoa
Cuộc đời Thánh Tăng
Đại Ca Diếp, Nguyễn Điều,
Cuộc đời Tôn Giả
Xá Lợi Phất, Nguyễn Điều,
Cuộc đời Tôn Giả
Mục Kiền Liên, Nguyễn Điều,
Đường
Mây Trên Đất Hoa, Thích Hằng Đạt và Nguyên Phong
Phật Giáo Khái Luận, Thích
Chơn Thiện
Bí Pháp
Tu Luyện Nội Công (Thiếu Lâm Công Phu), Trần Tiến
Điểm
Huyệt và Giải Huyệt, Lư Bảo Sơn
Nội
Đan, Lê Thành biên dịch
*
*
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
Mục Lục Thơ ‘họa thơ,
lẩy Kiều’
Mục Lục ‘‘Kiến Tánh Thành
Phật’’
------------------------------------------------------------------
*
Trang Chính
* Mục
Lục * Luận 1 * Luận
2 * Thơ 1 * Thơ
2
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Nối kết Trang Nhà Phật Pháp Việt
Nam * Nối
kết Văn Học *
------------------------------------------------------------------------------
* Bài
Xưa
* Bài
mới Kiến Tánh * Bài
mới Trang LêAnhChí *
---------------------------------------------------------------
*
Liên Kết
TrangNhà
LêAnhChí :
* Trang Chính * ML_ViệtSử,Văn * ViệtSử,
Văn 3 * ViệtSử, Văn 4 * Bài mới LêAnhChí *