Trực Chỉ. . . MINH Tâm !
(
Trực Chỉ Nhân Tâm hay Trực Chỉ Chân Tâm ? [2] )
Lê
Anh Chí
___________________________________
Dàn Bài :
I) Tóm lược bài [1] : Nhân Tâm và Chân
Tâm
đều hợp lư
II) Nếu phải chọn lựa . . .
III) Mục đích tu thiền là MINH Tâm
. . .
IV) Lục Tổ dùng chữ MINH Tâm và
‘tâm tỏ sáng’
V) Trần Trọng Kim có viết :
Trực Chỉ. . . MINH Tâm
VI) Ư nghĩa của Trực Chỉ
MINH Tâm
VII) Bằng chứng tối hậu :
Tổ Đạt Ma
VIII) (Ba) bài kệ của Tổ
Đạt Ma
___________________________________
Bài kệ nổi tiếng của
vị Tổ Sư của ta, bài kệ trấn sơn của
Thiền Tông :
Ngoài giáo truyền riêng
Chẳng
lập văn tự
Chỉ
thẳng nhân-tâm
Kiến
Tánh Thành Phật
cũng được truyền
tụng như sau :
Ngoài giáo truyền riêng
Chẳng
lập văn tự
Chỉ
thẳng Chân Tâm
Kiến
Tánh Thành Phật
khác nhau ở một chữ ở câu 3 (nhân
và chân ) :
Chỉ thẳng nhân-tâm
(Trực Chỉ Nhân Tâm)
và
Chỉ
thẳng chân-tâm (Trực
Chỉ Chân Tâm )
Bài viết [1],
Trực
Chỉ Nhân Tâm hay Trực Chỉ Chân Tâm ?
đă bàn
luận xem trong 2 câu trên, câu nào hợp lư hơn (
hợp với lư thiền Thiền Tông hơn ), hợp
với tinh thần Thiền Tông hơn, hợp với cách
hành đạo Thiền Tông hơn
I) Tóm lược bài [1] :
Nhân Tâm và Chân Tâm đều hợp lư
1) Nhân Tâm : căn cơ của
học tṛ
Nguyên lư của Phương Thức
Thiền Tông là "Khéo dùng phương tiện !
" Khéo dùng phương tiện để trực chỉ
nhân tâm, chân tâm.
(Xem bài " Nguyên Lư
Phương Thức Thiền Tông "
Mà phương tiện được
khéo dùng nếu vị thiền-sư chỉ vào căn cơ
của học tṛ. Do đó, phương tiện
thường là Trực Chỉ Nhân Tâm !
V́ thế, Trực Chỉ Nhân Tâm hợp
với lư thiền Thiền Tông , hợp với cách hành
đạo Thiền Tông
2) Chân Tâm : mục đích của
pháp môn
Trực Chỉ Chân Tâm vẫn
rất hợp lư:
1) mục đích của Thiền Tông
bao giờ cũng là Phật Tánh. do đó pháp môn bao giờ
cũng có mục đích là
Trực Chỉ Chân Tâm ! Khi nhấn mạnh vào mục
đích th́ nên dùng câu Trực Chỉ Chân Tâm !
2) thỉnh thoảng vẫn thấy
các vị thiền-sư Trực Chỉ Chân Tâm ; cho
nên , dù là thiểu số, Trực Chỉ Chân Tâm cũng
là phương pháp Thiền Tông !
3) Khéo dùng phương tiện !
Nguyên lư của Phương Thức
Thiền Tông là "Khéo dùng phương tiện !
"
Như những thí dụ đă tŕnh bày
:
1) V́ "Khéo dùng phương
tiện" nên phải tùy thuộc vào căn cơ của
học tṛ, do đó đa số các phương tiện dùng
là Trực Chỉ Nhân Tâm .
2) Mục đích bao giờ cũng là
Phật Tánh. do đó cũng là Trực Chỉ Chân Tâm .
Vả lại, thỉnh thoảng
vẫn thấy các vị thiền-sư Trực Chỉ Chân
Tâm .
3) Trong cả hai trường hợp,
phải tùy thuộc vào căn cơ của học tṛ, do
đó là Trực Chỉ Nhân Tâm ( và nhớ rằng người
học tṛ phải áp dụng câu chuyển ngữ vào tâm
mới Kiến Tánh được !)
4) Sau khi được chỉ
điểm, nếu ngộ th́ chỉ nửa phút sau đă
ngộ, thời gian đạt được mục
đích (Chân Tâm )ngắn
như vậy, nên là Trực Chỉ Chân Tâm !
5) Đă là phương tiện th́ vô ngại,
bởi vậy nào ngại ǵ Trực Chỉ Chân Tâm hay Trực
Chỉ Nhân Tâm ?
Kết :
Trực Chỉ Nhân Tâm và
Trực Chỉ Chân Tâm đều hợp lư ( hợp với
lư thiền Thiền Tông ), hợp với tinh thần
Thiền Tông , hợp với cách hành đạo Thiền
Tông.
Thiết nghĩ : Tổ Đạt Ma và
các vị Thiền Sư lỗi lạc đều khéo dùng
Trực Chỉ Nhân Tâm và Trực Chỉ Chân Tâm.
(thiền lư : khi Kiến Tánh th́
đồng chứng Phật-tâm như nhau nhưng khác nhau
ở tri kiến về thiền lư, lỗi lạc hay không
là ở chỗ này )
II) Nếu phải chọn
lựa . . .
Nếu phải chọn lựa giữa
’ Nhân Tâm’ và ‘Chân Tâm’ th́ sao ?
_Th́ tôi bắt buộc phải
chọn’Trực Chỉ Chân Tâm’ :
1) Mục đích bao giờ cũng là
Phật Tánh. do đó cuối cùng lúc nào cũng là Trực
Chỉ Chân Tâm .
2) Vả lại, đây là bài kệ
‘tŕnh làng’, bài kệ mà Tổ Đạt Ma bày tỏ
cương lĩnh của Thiền Tông ; so sánh với
các tông phái đương thời ở Trung Hoa. Do đó
phải nói cái thiết yếu căn bản của pháp môn
Kiến Tánh : Chân Tâm ! Nếu nói Trực Chỉ Nhân
Tâm th́ làm sao người ta có thể tin rằng sẽ
Kiến Tánh ?
Thế nên, nếu phải chọn
lựa giữa .’ Nhân Tâm’ và ‘Chân Tâm’ th́ bài kệ bắt
buộc phải là :
Ngoài giáo truyền riêng
Chẳng
lập văn tự
Chỉ
thẳng Chân Tâm
Kiến
Tánh Thành Phật
Câu chuyện như vậy xem như
đă giải quyết xong ? _Nhưng không ! tôi
nghĩ rằng c̣n có một đáp án khác. Câu thứ ba
của bài kệ có thể chẳng phải là :
_Trực Chỉ Nhân Tâm
cũng chẳng phải :
_Trực Chỉ Chân Tâm
mà có thể là :
_Trực Chỉ MINH Tâm !
III) Mục đích tu thiền
là MINH Tâm . . .
Mục đích tu thiền là MINH Tâm
Kiến Tánh !. Ít ra , 30 năm trở về trước,
người ta thường nói như vậy. Tôi nghĩ
rằng " MINH Tâm Kiến Tánh " là do người ta :
_ghép hai câu cuối của bài kệ :
Trực
Chỉ MINH Tâm
Kiến
Tánh Thành Phật
_và rút gọn lại (bỏ 4 chữ đầu và
cuối) mà thành !
Bây giờ, người ta nói vậy ít
đi. Bây giờ, người ta hay nói Thiền Tông là pháp
môn " Trực Chỉ Nhân Tâm , Kiến Tánh Thành Phật
" . Cách ghép câu như vậy, cũng là bằng chứng
cho cách ghép chữ " MINH Tâm Kiến Tánh " đă nói ở trên.
IV) Lục Tổ dùng chữ
MINH Tâm và ‘tâm tỏ sáng’
Lục Tổ dùng chữ MINH Tâm và ‘tâm
tỏ sáng’ hay ‘tỏ sáng tâm’ (đều có nghĩa là MINH
Tâm) để diễn tả sự Kiến Tánh .
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn
(dịch giả Thích Minh Trực) , ta thấy một trường hợp ‘Minh Tâm’ và
rất nhiều ‘tâm
tỏ sáng’; sau đây là một số thí dụ
:
_Sư lại nói kệ rằng:
Ông tên là Pháp Đạt
Siêng tụng hoài, không dứt
Tụng không theo âm thinh
Minh Tâm mới gọi Phật
_thấy một
người khách tụng kinh. Huệ Năng này nghe qua, tâm
liền mở mang tỏ sáng,
mới hỏi khách tụng kinh ǵ?
_C̣n Pháp th́ lấy tâm
truyền tâm, khiến cho người tự ḿnh tỏ sáng,
tự ḿnh hiểu biết. Từ xưa, Chư Phật chỉ truyền cái Bổn
Thể , và chỉ trao
kín cái Bổn Tâm mà
thôi.
_Huệ Năng
này sanh tại xứ dă man, giọng nói nặng âm thổ ngữ, nhờ Tổ Sư truyền pháp, nay đă
được tỏ
sáng, th́ chỉ nên lấy
tánh ḿnh mà độ ḿnh mới phải."
_Huệ Minh
nghe nói rồi, liền rất tỏ sáng, lại hỏi . .
_Nguyên người
tiểu căn có trí Bát
Nhă cũng như người đại trí, không
có chỗ ǵ khác. Nhưng bởi cớ sao họ
nghe pháp mà ḷng chẳng
tự mở mang tỏ sáng ?
_Cái Trí Bát Nhă vốn
không lớn nhỏ, chỉ v́ cái tự
tâm của chúng sanh mê
ngộ chẳng
đồng mà thôi. Ḷng mê chỉ thấy bề ngoài, tu hành t́m Phật mà chưa tỏ
sáng Bổn Tánh của ḿnh, tức là người tiểu căn.
_Bởi vậy,
ta mới đem giáo pháp này
mà lưu hành, khiến cho các người học đạo liền tỏ sáng tâm
Bồ Đề, mỗi người tự xem Bổn
Tâm của ḿnh và tự
thấy Bổn Tánh của ḿnh. Nếu tự ḿnh chẳng tỏ sáng, th́ phải
t́m bực Đại Thiện Tri Thức giảng giải pháp Tối Thượng Thừa và chỉ
ngay con đường
Chánh Giác cho ḿnh
_Chư Thiện tri thức, đă quy y ba pháp
báu ở tánh ḿnh rồi,
các vị hăy chí tâm,
ta nói cho mà rơ cái
pháp Phật Một Thể Ba Thân Trong
Tánh Ḿnh, khiến cho các
vị thấy ba thân rơ
ràng, tự tánh ḿnh tỏ
sáng tánh ḿnh.
_Chư Thiện tri thức, Trí như
mặt trời, Huệ như mặt trăng. Trí Huệ thường sáng, nhưng bởi tâm dính níu
cảnh vật ở bên ngoài,
rồi bị mây vọng niệm của ḿnh che án
tánh ḿnh, nên Trí Huệ
chẳng đặng
tỏ sáng
_Chư Thiện tri thức, cái Pháp
thân vốn là đầy đủ. Niệm niệm tánh ḿnh tự
nhiên hiện ra tỏ sáng, tức là Báo Thân Phật
Tại sao Lục Tổ dùng chữ
Minh Tâm hay ‘tâm tỏ sáng’ hay ‘tỏ sáng tâm’ (đều có
nghĩa là MINH Tâm) để diễn tả sự Kiến
Tánh ?
V́ :
_Minh
Tâm là một đặc điểm chính của sự
Kiến Tánh
_Lục
Tổ dùng chữ Minh Tâm và nghĩ rằng ai cũng
hiểu, v́ Minh Tâm là thuật ngữ thông dụng, ngay
từ thời đó. Tôi đoán rằng : a) Lục
Tổ học được chữ này khi giă gạo 8 tháng
ở chùa Ngũ Tổ b) Minh
Tâm rất thông dụng v́ xuất phát từ bài kệ
của Tổ Đạt Ma.
V) Trần Trọng Kim có
viết : Trực Chỉ. . . MINH Tâm
Ông Trần Trọng Kim có viết ‘Trích giảng
LĂNG CA KINH’ , có
đoạn văn sau :
"Đại yếu
kinh Lăng-Ca
(Lăng Già) là trực
chỉ minh tâm kiến tánh thành Phật
để làm một thứ giáo ngoại biệt truyền, lập thành cái Đốn-giáo Đại-thặng.
Vào khoảng đời nhà Lương (502-557) Sơ Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma đem
cái tâm tông
bí truyền ở bên Ấn-Độ
sang nước Tàu, rồi đến khi truyền pháp cho
Nhị Tổ Tuệ-Khả, nói rằng: "Ta xem các kinh giáo
ở Chấn-Đán,
duy có bốn
quyển Lăng-ca là
có thể để ấn chứng cho cái
tâm".
Từ Nhị
Tổ Tuệ Khả đến Ngũ Tổ Hoàng-Nhẫn, trong Thiền Tông vẫn lấy kinh Lăng-ca truyền thụ. Sau không biết
v́ lẽ ǵ mà Ngũ
Tổ đem kinh Kim-Cương thay kinh Lăng-ca.
Sách Pháp Bảo Đàn Kinhchép lời người khách nói với
Lục Tổ Huệ-Năng khi c̣n hàn vi rằng:
"Ta đến chùa
Đông-thiền ở
Hoàng-mai để lễ bái, được nghe kinh
Kim-cương, Ngũ
Tổ Hoàng-Nhẫn
đại sư thường
khuyên tăng và tục nên
tụng kinh Kim-cương tức tự thấy tánh, hiểu ngay thành Phật".
Đến khi Ngũ
Tổ truyền pháp cho Lục
tổ cũng chỉ giảng kinh Kim-cương, chứ không nói
ǵ đến kinh Lăng-ca. Từ đó về sau, trong
Thiền môn chư tăng
chuyên dùng kinh Kim-cương mà bỏ nhăng
kinh Lăng-ca. "
Câu đầu của đoạn
văn trên có đến 3 câu của bài kệ của Tổ
Đạt Ma :
giáo ngoại biệt
truyền
trực chỉ minh tâm
kiến tánh thành
Phật
Chỉ có câu kệ thứ ba, ông TTK
viết:
_trực
chỉ minh tâm
thay v́
_trực
chỉ chân/nhân tâm
Đây là3 câu của bài kệ của
Tổ Đạt Ma v́ :
1) mặc dầu ông TTK viết :
_Đại
yếu kinh Lăng-Ca (Lăng Già) là trực chỉ minh tâm kiến
tánh thành Phật để làm một thứ giáo ngoại biệt truyền
Câu " trực chỉ minh tâm kiến
tánh thành Phật " không có trong kinh Lăng-Ca
(Lăng Già) , theo bản dịch Thích Duy Lực
2) ông TTK dùng bài kệ của Tổ
Đạt Ma v́ ,
như ai cũng biết, Tổ truyền trao Kinh
này cho Nhị Tổ Tuệ-Khả
3) là3 câu của bài kệ của
Tổ Đạt Ma v́ rất dễ nhận ra ! Và v́
vậy , ông TTK không nói xuất xứ của những câu này
Vậy th́, theo Ông Trần Trọng Kim
, câu thứ ba của bài kệ của Tổ Đạt Ma là :
_trực
chỉ minh tâm
VI) Ư nghĩa của Trực
Chỉ MINH Tâm
Ư nghĩa của Trực Chỉ MINH
Tâm :
1) MINH Tâm = tâm sáng
tâm sáng = Chân Tâm
Trực Chỉ MINH Tâm = Trực
Chỉ Chân Tâm
2) MINH Tâm = làm sáng cái tâm
Trực Chỉ MINH Tâm = Trực
Chỉ, làm sáng cái tâm
a) tâm = vọng tâm
Trực Chỉ MINH Tâm = Trực
Chỉ, làm sáng vọng tâm
làm sáng vọng tâm th́ Kiến Tánh
b) tâm = chân tâm
Trực Chỉ MINH Tâm = Trực
Chỉ, làm sáng Chân Tâm
Chân Tâm th́ dĩ nhiên đă tự sáng.
Vậy, làm sáng Chân Tâm có nghĩa là làm Chân Tâm hiển lộ.
Do đó,
Trực Chỉ MINH Tâm = Trực
Chỉ, làm Chân Tâm hiển lộ.
Như
vậy, Trực Chỉ MINH Tâm bao gồm Trực Chỉ
Chân Tâm và Trực Chỉ Nhân Tâm ; không những thế ,
c̣n thêm ư nghĩa ‘làm sáng tâm’ của sự Kiến Tánh.
VII) Bằng chứng tối
hậu : Tổ Đạt Ma
Tổ Đạt Ma cũng nói
nhiều về Minh Tâm trong "Sáu cửa Thiếu
Thất" :
1) Chiếu sáng
bên trong mà mở thông
suốt, tức là cửa đại thừa.
2) Người thượng trí vắng lặng tṛn đầy soi chiếu bên trong, sáng
tâm tức Phật, chẳng đợi tâm mà
được Phật.
Nếu tự ḿnh không sáng
tỏ, cần tham vấn các bậc thiện trí thức để thấu rơ nguồn gốc sanh tử.
3) Nếu
tự ḿnh sáng tỏ được th́ chẳng cần học, khác với kẻ mê trắng đen không phân rơ lại
c̣n lếu láo tuyên lời
Phật dạy, báng Phật chê pháp.
Nếu
trí huệ chiếu sáng tâm
ấy, cũng gọi là pháp tánh, cũng gọi là giải thoát, mới hay tâm ấy
không bị sanh tử buộc ràng, không một pháp nào trói
mắc được,
4) Ngàn kinh muôn luận
cốt mở sáng tâm.
Trong những câu
trên, có câu 2, Tổ c̣n nói rơ :
_sáng tâm tức Phật
Hơn nữa, trong TIỂU SỬ
sư Bồ Đề
Đạt Ma (của
Chánh Trí, viêt theo Truyền
Đăng Lục),có đoạn
sau :
"Có người tên là Thành Thái, tự
Dương Huyễn,
sớm mộ phương tu thành Phật, đến hỏi:
- Nghe Sư bên Tây Thiên, thừa
tiếp pháp ấn làm Tổ,
vậy xin dạy cho con biết con đường
đưa đến
vị Tổ như thế nào?
Sư đáp:
- Sáng rơ Phật là tâm, nói làm cho
phù hợp, đó gọi là Tổ.
- Ngoài ra c̣n ǵ không?
- Nên sáng tâm người, biết rành kim
cổ, chẳng chán có không,
đối pháp chẳng nắm, chẳng hiền chẳng ngu, không mê không
ngộ. Giải
được như
thế, đáng xưng là Tổ."
Trong đoạn trên,
Tổ đă nói một vị Tổ phải :
- Sáng rơ Phật là tâm
và
- Nên sáng tâm người
Rơ ràng là ư : bổn phận
của một vị Tổ là
Trực Chỉ MINH Tâm !
VIII) (Ba) bài kệ của
Tổ Đạt Ma
Bài kệ nổi tiếng của
vị Tổ Sư của ta, bài kệ trấn sơn của
Thiền Tông thường được
truyền tụng thành hai bài kệ ; bài viết này thêm vào
bài kệ thứ ba. Nay, biên lại cả ba bài ra đây:
1)
Ngoài giáo truyền riêng
Chẳng
lập văn tự
Trực
Chỉ nhân-tâm
Kiến
Tánh Thành Phật
2)
Ngoài giáo truyền riêng
Chẳng
lập văn tự
Trực
Chỉ Chân Tâm
Kiến
Tánh Thành Phật
3)
Ngoài giáo truyền riêng
Chẳng
lập văn tự
Trực
Chỉ MINH Tâm
Kiến
Tánh Thành Phật
Trong ba bài kệ này, bài kệ 3 có
lẽ mới chính là của vị Tổ Sư của ta .
Bài luận này đă trưng ra bằng cớ. Nay tóm
lược những lư do chính :
1) Trực Chỉ MINH Tâm bao gồm
Trực Chỉ Chân Tâm và Trực Chỉ Nhân Tâm ; không
những thế , c̣n thêm ư nghĩa ‘làm sáng tâm’ của sự
Kiến Tánh. . .
2) Các thiền sư xưa nay và các
Phật Tử đều có bàn chuyện Minh Tâm Kiến
Tánh ; đặc biệt là có dùng nhiều đến
thuật ngữ Minh Tâm
3) Tổ Đạt Ma cũng nói
nhiều về Minh Tâm trong "Sáu cửa Thiếu
Thất". Trong đó, có lần
Tổ c̣n nói rơ :
_sáng tâm tức Phật
Hơn nữa, để trả
lời câu hỏi của Thành Thái :
_Thế
nào là Tổ ?
Tổ đă nói :
- Sáng rơ Phật là tâm
và
- Nên sáng tâm người
Rơ ràng là ư : Trực Chỉ MINH Tâm . Ta nên nhớ rằng Trực Chỉ là bổn phận
của chư Tổ.
*
*
* Lê Anh Chí *.
______________
Kinh sách tham khảo
Kinh :
Kinh
Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh
Đại
Thừa Kim Cang Kinh Luận
Cuộc
đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch
giả Thích Trung Quán
Kinh
Kim Cang, dịch
giả Thích Duy Lực
Kinh
Lăng Nghiêm, dịch giả Trí
Độ và Tuệ Quang
Kinh Lăng Già , dịch giả Thích
Duy Lực
Kinh
THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG, Việt dịch : Thích Nhẫn
Tế
Kinh
Trường A Hàm, dịch
giả Thích
Thiện Siêu
Kinh Vô Ngă Tướng,
dịch
giả Phạm Kim
Khánh
Ngữ Lục (đến đời
Lục Tổ):
Sáu
cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ,
dịch giả Trúc Thiên
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy
Lực
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh
Trực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác, dịch giả Trúc Thiên
Ngữ Lục (sau đời Lục
Tổ):
Bá
Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy
Lực
Truyền
Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy Lực
Cội
nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của
thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn
tâm trực thuyết, Phổ Chiếu
Lâm
Tế Ngữ Lục
Thiền
Đốn Ngộ, nhiều tác giả :
Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành Kim, Oánh
Sơn, Hư Vân; dịch
giả Thích Thanh Từ
Tọa
Thiền Luận, Đại Giác, dịch giả Như
Hạnh
Tu tâm
quyết, Phổ Chiếu
Sách :
Tứ Diệu
Đế, Thích Thiện Hoa
Thiền
Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ
Tổ
Thiền Tông, Thích Thanh Từ
Thiền Luận,
Tập Thượng . Suzuki, dịch giả
Trúc Thiên
Luận
:
Trích giảng LĂNG CA KINH ,
Trần Trọng Kim
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
--------------------------------------------------------------
* Trang Chính * M ụ
c L ụ c * Đoản
Luận * Thơ *
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Bài
mới * Nối kết Trang Nhà Phật
Pháp Việt Nam *
------------------------------------------------------------------------------