Trực Chỉ Nhân Tâm hay
Trực Chỉ Chân Tâm ?
Lê Anh Chí
Dàn
Bài :
I )
Đốn Ngộ cũng là tu
II ) Ngón tay
chỉ mặt trăng
III ) Trực
Chỉ Chân Tâm : Thí dụ
IV ) Trực
Chỉ Nhân Tâm : Thí dụ
V ) Trực
Chỉ Nhân Tâm và Chân Tâm : Thí dụ
VI ) Nhân Tâm :
căn cơ của học tṛ
VII ) Chân Tâm :
mục đích của pháp môn
VIII ) Khéo dùng
phương tiện !
IX ) Ba
phương thức Thiền Tông : Nhân Tâm hay Chân
Tâm ?
X ) Viết
lại bài kệ theo hai cách
XI ) Vấn
đề sử liệu : Tổ Thiền Tông không nói
dối !
Bài kệ
nổi tiếng của vị Tổ Sư của ta, bài
kệ trấn sơn của Thiền Tông :
Ngoài giáo truyền riêng
Chẳng lập văn tự
Chỉ thẳng nhân-tâm
Kiến Tánh Thành Phật
cũng
được truyền tụng như sau :
Ngoài giáo truyền riêng
Chẳng lập văn tự
Chỉ thẳng Chân Tâm
Kiến Tánh Thành Phật
khác nhau
ở một chữ ở câu 3 (nhân và chân ) :
Chỉ thẳng nhân-tâm
(Trực Chỉ Nhân Tâm)
và
Chỉ thẳng chân-tâm (Trực Chỉ Chân Tâm )
Bài viết
này bàn luận xem trong 2 câu trên, câu nào hợp lư hơn (
hợp với lư thiền Thiền Tông hơn ), hợp
với tinh thần Thiền Tông hơn, hợp với cách
hành đạo Thiền Tông hơn
I )
Đốn Ngộ cũng là tu
Thường
người tu nghe một câu chuyển ngữ rồi
ngộ !
Từ khi
nghe câu (hay đọc câu) chuyển ngữ cho đến khi
ngộ ; ‘giai đoạn’ này là ‘giai đoạn’ tu
hành !
Bởi v́
nếu được câu chuyển ngữ mà cứ b́nh chân
như vại th́ chẳng thể Kiến Tánh !
Người tu phải áp dụng câu chuyển ngữ vào tâm
mới Kiến Tánh được !
Sự tu hành
này chỉ kéo dài nửa phút, 15 giây đồng hồ
nhưng vẫn là tu !
Một
sự tu hành quan yếu v́ giải quyết được
vấn đề từ vô lượng kiếp !
Tôi nhấn mạnh
điểm này ở đây : v́ rất nhiều
người hiểu lầm rằng:
_ câu
chuyển ngữ là một câu thần chú, nghe cái th́ ngộ
liền !
_ câu
chuyển ngữ là bảo bối, như tu tiên trong
truyện Phong Thần vậy !
_ câu
chuyển ngữ là phép lạ , phép khai ngộ, của
vị thầy khai tâm cho học tṛ ! câu chuyển
ngữ giống như nội lực của thầy
truyền cho học tṛ , như trong truyện kiếm
hiệp của Kim Dung , Cổ Long ! ( tức là họ
hiểu lầm ba chữ ‘truyền tâm ấn’)
Xem bài
_Đốn
Ngộ cũng là tu
http://www.kientanh.com/Luan3/DonNgoLaTu.html
II ) Ngón tay
chỉ mặt trăng
Được
chuyển ngữ là
được "trực chỉ ". Sự
"trực chỉ " ở đây vẫn là ngón tay
chỉ mặt trăng, nguyên tắc của nhà Phật, tùy theo căn cơ của
người học mà thành cái hướng chỉ của
ngón tay ! Và cuối cùng, người học phải áp
dụng câu chuyển ngữ vào tâm để
_NHẢY Một Cái vào thẳng đất Như Lai !
(
xuất xứ từ Chứng Đạo Ca của Thiền Sư Huyền Giác:
Tranh tự vô vi
thực tướng
môn,
NHẤT
SIÊU trực nhập Như Lai địa
(Nên
tự cửa vô vi thực
tướng,
NHẢY
Một Cái vào thẳng đất Như Lai))
Ở
đây, ta t́m xem cái hướng chỉ của ngón tay là
: nhân-tâm hay chân-tâm ?
III )
Trực Chỉ Chân Tâm : Thí dụ
Mă Tổ
bảo Đại Mai :
_Tâm tức
là Phật, Phật tức là Tâm ! (Tức Tâm Tức
Phật !)
Đại
Mai ngộ.
Tưởng
trong " Giáo Ngoại Biệt Truyền ", không có lời dạy nào
Trực Chỉ Chân Tâm bằng lời này :
Tâm đây
là Chân Tâm
Chân Tâm là
Phật Tánh
Chân Tâm là
Phật
Phật là
Chân Tâm !
IV )
Trực Chỉ Nhân Tâm : Thí dụ
Hỏi :
_Con chó có Phật Tánh không ?
Tổ
Triệu Châu :
_Không !
Câu trả
lời này dĩ nhiên là sai bét ! Dĩ nhiên là Con chó
có Phật Tánh ! Vậy th́ tại sao
Tổ Triệu
Châu lại nói điều mà ai nấy đều
biết là sai ?
Chỉ có
thể trả lời là : Tổ Triệu Châu tùy
căn cơ người hỏi, có lẽ người
đó vướng trong tâm điều ǵ đó về
Phật Tánh, nên mới bị Tổ Triệu Châu
‘trực chỉ ‘ như vậy.
Đây là
Trực Chỉ Nhân Tâm , một thí dụ cực
đoan !
V )
Trực Chỉ Nhân Tâm và Chân Tâm : Thí dụ
Có khi các
thiền sư Trực Chỉ vừa Nhân Tâm vừa Chân
Tâm . Một thí dụ là bài pháp đầu tiên của
Lục Tổ
tức
là :
câu chuyện Kiến Tánh
của Huệ Minh
1) Câu
chuyện Lục Tổ và Huệ Minh
Khi đại chúng
biết Lục Tổ được truyền y bát, th́
có mấy trăm
người đuổi
theo để đoạt lại, trong đó có
một Tăng tên tục là Trần Huệ Minh ngày
trước làm Tứ Phẩm tướng quân, tánh t́nh thô
bạo, dẫn đầu đi trước,
đuổi kịp Lục Tổ. Lục Tổ để
y bát trên tảng đá và nói rằng:
"Y bát
là vật làm tin, há dùng sức
mà đoạt
được sao? ", rồi ẩn
ḿnh trong đám cỏ. Huệ Minh đến, muốn lấy y bát mà chẳng nhúc nhích được, liền kêu lớn lên
: "Hành giả!
Hành giả! Tôi v́ Pháp
đến, chẳng
v́ Y đến."
Lục Tổ liền
ra ngồi trên tảng đá, Huệ Minh đảnh lễ nói rằng:
Mong hành
giả v́ tôi thuyết Pháp.
Lục Tổ nói:
Ông đă
v́ Pháp mà
đến đây, th́ nên dứt
bặt trần duyên, chớ sanh một niệm, tôi sẽ v́ ông
mà thuyết.
Một hồi sau Lục
Tổ nói:
Không nghĩ thiện,
Không nghĩ
ác, đang khi ấy cái ǵ
là bản lai diện
mục của
Thượng Tọa
Minh ?
Huệ Minh ngộ,
2 ) Lục
Tổ khéo Trực Chỉ vừa Nhân Tâm vừa Chân
Tâm
Tại sao
Huệ Minh ngộ ? - Huệ Minh ngộ khi t́m cách (
quán chiếu ) để trả lời câu hỏi :
cái ǵ
là bản lai diện
mục của
Thượng Tọa
Minh ?
Xưa nay,
hầu hết thiền sinh đều tự đặt câu
hỏi :
cái ǵ
là bản lai diện
mục của
ta ?
và hầu
hết đều chẳng chứng ngộ ! ( dù mọi
người đều
biết rằng câu trả lời, về lư, là : Phật Tánh ! )
Huệ Minh
ngộ , đây là trường hợp cực kỳ
đặc biệt, và do những phương tiện
thiện xảo mà Lục Tổ đă dùng, như sau :
1) Sửa soạn tâm 1 : Huệ
Minh đến, muốn cướp y bát mà y bát
chẳng nhúc nhích được khỏi tảng đá, nên kinh
sợ : rồi
đổi ư mà một ḷng cầu pháp.
Yếu
tố này có lẽ chẳng
phải do Lục Tổ gây ra.
2) Sửa soạn tâm 2 :
Đang lắng ḷng nghe pháp, th́ Lục Tổ bảo
"chớ sanh một niệm" , Huệ
Minh lại "chớ sanh một
niệm" để nghe pháp.
3) Sửa soạn tâm 3 :
Lại nghe Lục Tổ bảo " Không nghĩ thiện,
không nghĩ ác ", Huệ Minh
lại " Không nghĩ thiện, không nghĩ ác
"
4) Sửa soạn tâm 4 :
Kinh Ngạc v́ thay v́ nói pháp, Lục Tổ lại
đặt câu hỏi.
5) Chuyển ngữ biệt truyền : Từ cái
Kinh Ngạc này và từ chỗ " Không nghĩ
thiện, không nghĩ ác ", Huệ Minh t́m
cách ( quán chiếu ) để trả lời câu
hỏi :
cái ǵ
là bản lai diện
mục của
Thượng Tọa
Minh ?
(Cái câu hỏi này là Chuyển
ngữ biệt truyền)
th́ bỗng
dưng chứng bản lai diện
mục !
Ta nên để ư
rằng :
a) Lục
Tổ đă sửa soạn tâm cho Huệ Minh nhiều lần trước khi cho câu chuyển ngữ biệt truyền . Đây là
Trực Chỉ Nhân Tâm !
b) Chuyển
ngữ biệt truyền :
cái ǵ
là bản lai diện
mục của
Thượng Tọa
Minh ?
Đây là
Trực Chỉ Chân Tâm ; v́ nói thẳng về bản
lai diện mục ,
tức Phật Tánh ! ( ở đây là
một câu hỏi v́ mục đích bắt người
học tṛ phải quán chiếu để trả lời ,
có thế th́ tâm mới chuyển , mới NHẢY
Một Cái ! ).
VI ) Nhân
Tâm : căn cơ của học tṛ
Nguyên lư
của Phương Thức Thiền Tông là "Khéo dùng
phương tiện ! " Khéo dùng phương tiện
để trực chỉ nhân tâm, chân tâm.
(Xem bài " Nguyên Lư
Phương Thức Thiền Tông "
http://www.kientanh.com/Luan3/NguyenLyTT.html
)
Mà
phương tiện được khéo dùng nếu vị
thiền-sư chỉ vào căn cơ của học tṛ. Do
đó, phương tiện thường là Trực Chỉ
Nhân Tâm !
V́ thế,
Trực Chỉ Nhân Tâm hợp với lư thiền
Thiền Tông , hợp với cách hành đạo Thiền
Tông
VII ) Chân
Tâm : mục đích của pháp môn
Trực
Chỉ Chân Tâm vẫn rất hợp lư:
1) mục
đích của Thiền Tông bao giờ cũng là Phật
Tánh. do đó pháp môn bao giờ cũng có mục đích
là Trực Chỉ Chân Tâm !
Khi nhấn mạnh vào mục đích th́ nên dùng câu Trực
Chỉ Chân Tâm !
2) thỉnh
thoảng vẫn thấy các vị thiền-sư Trực
Chỉ Chân Tâm ; cho nên , dù là thiểu số, Trực
Chỉ Chân Tâm cũng là phương pháp Thiền Tông !
VIII ) Khéo
dùng phương tiện !
Nguyên lư
của Phương Thức Thiền Tông là "Khéo dùng
phương tiện ! " Khéo dùng phương tiện
để trực chỉ nhân tâm, chân tâm.
(Xem bài " Nguyên Lư
Phương Thức Thiền Tông "
http://www.kientanh.com/Luan3/NguyenLyTT.html
)
Như
những thí dụ đă tŕnh bày ở trên :
1) V́ "Khéo
dùng phương tiện" nên phải tùy thuộc vào
căn cơ của học tṛ, do đó đa số các
phương tiện dùng là Trực Chỉ Nhân Tâm .
2) Mục
đích bao giờ cũng là Phật Tánh. do đó cũng là
Trực Chỉ Chân Tâm .
Vả
lại, thỉnh thoảng vẫn thấy các vị
thiền-sư Trực Chỉ Chân Tâm .
3) Trong
cả hai trường hợp, phải tùy thuộc vào
căn cơ của học tṛ, do đó là Trực Chỉ
Nhân Tâm ( và nhớ rằng người học tṛ
phải áp dụng câu chuyển ngữ vào tâm mới
Kiến Tánh được !)
4) Sau khi
được chỉ điểm, nếu ngộ th́
chỉ nửa phút sau đă ngộ, thời gian đạt
được mục đích ngắn như vậy, nên là
Trực Chỉ Chân Tâm !
5) Đă là
phương tiện th́ vô ngại, bởi vậy nào
ngại ǵ Trực Chỉ Chân Tâm hay Trực Chỉ Nhân
Tâm ?
Kết :
Trực
Chỉ Nhân Tâm và Trực Chỉ Chân Tâm
đều hợp lư ( hợp với lư thiền Thiền
Tông ), hợp với tinh thần Thiền Tông , hợp
với cách hành đạo Thiền Tông.
Thiết
nghĩ : Tổ Đạt Ma và các vị Tổ lỗi
lạc đều khéo dùng Trực Chỉ Nhân Tâm và Trực
Chỉ Chân Tâm. (thiền lư : khi Kiến Tánh th́ đồng chứng Phật-tâm
như nhau nhưng khác nhau ở tri kiến về thiền
lư, lỗi lạc hay không là ở chỗ này )
IX ) Ba
phương thức Thiền Tông : Nhân Tâm hay Chân
Tâm ?
Việc tu
hành của pháp môn Kiến Tánh gồm 3 Phương Thức
:
1) truyền tâm ấn tâm
2) tự tu luyện bằng
Kinh Kim Cang
3) khán công án, thoại
đầu
Chỉ
vỏn vẹn có 3, không hai, không bốn, không năm.
(Để hiểu rơ hơn
về 3 Phương Thức này, xem bài " Nguyên Lư
Phương Thức Thiền Tông ")
Ba
phương thức Thiền Tông : Trực Chỉ Nhân
Tâm hay Chân Tâm ?
1) truyền
tâm ấn tâm
Đây là
phương thức Thiền Tông, được dùng
bởi 31 vị Tổ Sư, từ Tổ Ca Diếp
đến Tổ Đạt Ma và 3 vị Tổ Trung
Hoa : Nhị, Tam và Tứ Tổ.
Phương
thức này thường là Trực Chỉ Nhân Tâm , thỉnh
thoảng là Trực Chỉ Chân Tâm .
2) tự tu
luyện bằng Kinh Kim Cang
Đến
thời Ngũ Tổ, ngài Ngũ Tổ làm một
cuộc đại cách mạng : ngài dạy rằng
thọ tŕ Kinh Kim Cang có thể thấy tánh. Nghĩa là ta có
thể tự tu, tự chứng Chân Tâm bằng Kinh Kim
Cang !
Như
thế, theo Ngũ Tổ, Kinh Kim Cang chứa những
chuyển ngữ làm cho ta có
thể thấy tánh. V́ đây là Kinh : lời Kinh có
thể hiểu và thực hành bởi tất cả mọi
người, nên gọi là chuyển ngữ công truyền.
V́ đây là
chuyển ngữ công truyền, nên phương thức
Thiền Tông này là Trực Chỉ Chân Tâm !
3) khán công án,
thoại đầu
Phương
thức Thiền Tông này là Trực Chỉ Nhân Tâm v́
chẳng phải là Trực Chỉ Chân Tâm ! Nội
một việc khởi nghi t́nh đă chẳng phải là
Trực Chỉ Chân Tâm rồi !
Có
điều Phương thức Thiền Tông này có
thể gọi là Trực Chỉ hay không ? _Kể ra có
thể gọi tạm là Trực Chỉ , v́ nếu ngộ,
th́ ngộ được trong kiếp này, thời gian tu
hành ngắn, nên tạm gọi là Trực Chỉ.
X )
Viết lại bài kệ theo hai cách
Ta có thể
diễn lại bài kệ của Đạt Ma Sư Tổ
theo hai cách như sau :
1)
Thầy : Ngoài giáo
truyền riêng
Thầy : Chẳng
lập văn tự
Thầy : Chỉ
thẳng tâm người (học tṛ)
Tṛ : Kiến Tánh Thành
Phật
2)
Thầy : Ngoài giáo
truyền riêng
Thầy : Chẳng
lập văn tự
Thầy : Chỉ
thẳng Chân Tâm ( của
học tṛ)
Tṛ : Kiến Tánh Thành
Phật
XI )
Vấn đề sử liệu : Tổ Thiền Tông không
nói dối !
1) Một nhà chú giải nổi tiếng, căn cứ vào sử liệu của sử gia Tông
Giám (tác giả bộ "Pháp Chánh Truyền của Phật Thích Ca" soạn năm 1257, và soạn theo
quan điểm của Thiên Thai Tông) nói
rằng :
_ bốn câu kệ này
không phải của Đạt Ma mà do đời sau đề ra
_đó là "sáng kiến" của Nam Tuyền Phổ Nguyện; chắc rằng công thức ấy ra đời khi
Thiền đang hồi cực thạnh Thiền
Tông.
Nhiều
Phật Tử Thiền Tông cũng tin điều này ;
cứ sử gia, khảo cổ gia nói ǵ là tin ngay, vô h́nh
chung, phỉ báng Tổ Thiền Tông !
Một khi
Tổ Nam Tuyền Phổ Nguyện nói rằng bài kệ này
của Tổ Đạt Ma, th́ :
_ bài kệ
đó chắc chắn chẳng phải của Nam
Tuyền !
_xác suất
95% là bài kệ này của Tổ Đạt Ma :
a) Tổ Nam
Tuyền biết như vậy do có thần thông
hoặc
b) Tổ Nam
Tuyền được thầy dạy như vậy, thầy
của thầy đă dạy như vậy v v . . . Sự
truyền thụ này có thể đă tam sao thất bản
do : duyên nghiệp của Nhị Tổ (lang bạt giang hồ, bị tử h́nh) ,
pháp nạn thời Tam Tổ
v v.
V́ Tổ Nam
Tuyền Phổ Nguyện không nói dối !
C̣n sử gia
Tông Giám lấy ḷng dạ tiểu nhân đo
lường người quân tử, lấy ḷng dạ phàm
nhân đo lường bậc thánh ! mới dám bảo
Tổ Nam Tuyền Phổ Nguyện
nói dối ! Vả lại, hắn là hậu sinh,
lại chẳng phải là đệ tử Thiền Tông ,
làm sao biết Thiền Tông lưu truyền những ǵ ?
Nhất là đây là pháp môn
Ngoài giáo truyền riêng
Chẳng lập văn
tự ?
C̣n bốn câu
kệ này "ra đời" khi đang hồi cực thạnh Thiền
Tông, th́ dĩ nhiên rồi ! Lúc Thiền Tông chỉ có lèo
tèo vài người, th́ người đời làm sao nghe nói
được đến công thức
ấy !
Tôi tha
thiết khẩn cầu những vị Phật Tử
Thiền Tông, những vị tin rằng Tổ Thiền Tông
nói dối, tha thiết khẩn cầu những vị
Phật Tử này , xin hăy ly khai Thiền Tông !
2)
Tương tự như vậy, lịch sử Đại
Thừa từ khi Phật nhập Niết Bàn, cũng
giống như lịch sử Thiền Tông Trung Hoa. Giờ
đây, người ta nói rằng Tổ Thiền Tông và
Đại Thừa ngụy tạo kinh điển, gọi
Thiền Tông và Đại Thừa là Phật Giáo Phát
Triển ! Tai hại nhất là : nhiều Phật
Tử Đại Thừa
cũng tin điều này ; cứ sử gia, khảo
cổ gia nói ǵ là tin ngay, vô h́nh chung, phỉ báng Tổ.
Nếu
Tổ Long Thọ ngụy tạo kinh điển, th́ Long
Thọ không thể là Tổ, mà chỉ là một tên nói
dối, xảo trá, lưu manh, bịp bợm. Những kinh
điển ngụy tạo này dĩ nhiên chẳng hay ho
ǵ ; vậy th́ tại sao các vị một mặt tin
Tổ Long Thọ ngụy tạo kinh điển, mặt
khác vẫn tin những kinh điển ngụy tạo
này ???????
Tôi tha
thiết khẩn cầu những vị Phật Tử
Thiền Tông và Đại Thừa, những vị tin
rằng Tổ Thiền Tông và Đại Thừa ngụy
tạo kinh điển , nhất là những vị xuất
gia, tha thiết khẩn
cầu những vị Phật Tử này , xin hăy ly khai
Đại Thừa !
Tôi sẽ có
một bài viết nói về vụ này, sẽ trưng
nhiều lư do ; trong khuôn khổ cùa bài này , tôi chỉ nói
một điểm : Tổ Thiền Tông và Đại
Thừa không nói dối !
3) Trở
về vấn đề của bài viết : Tổ Nam
Tuyền Phổ Nguyện không nói dối !
Tại v́
trong Phật Pháp, Trực Tâm là đạo tràng.
Người
cư sĩ chỉ có 5 giới. Vậy mà, trong ngũ
giới lại có ‘Không Nói Dối’.
Không
những thế, trong 4 giới c̣n lại :
Không trộm cắp
và
Không tà dâm
cũng
từ Trực Tâm mà ra.
Tóm lại,
trong ngũ giới có ba giới liên quan đến Trực
Tâm !
Trực Tâm
là điều kiện cần ( nhưng không đủ )
để đắc đạo. Nếu tâm mà lươn
lẹo, xảo trá th́ chẳng thể :
_NHẢY Một Cái vào thẳng đất Như Lai !
Trực Tâm
là đạo tràng :
Cùng nhân thế, thênh thang
chân thực,
Chẳng dối lừa,
giành giựt , ghét ghen,
Mảnh trăng treo cửa làm
đèn,
Tâm này trăng nọ đóa sen chân t́nh !
(Trực Tâm Ca, Lê
Anh Chí )
----------------------
Kinh sách
tham khảo
Kinh :
Kinh Đại Bát Niết Bàn,
dịch giả Thích Trí Tịnh
Đại Thừa Kim Cang Kinh
Luận
Cuộc đời Đức
Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán
Kinh Kim Cang
Kinh Lăng Nghiêm, dịch giả Trí Độ và Tuệ Quang
Kinh THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG
THÔNG, dịch giả Nhẫn
Tế
Kinh Trường A Hàm, dịch giả Thích Thiện Siêu
Kinh
Vô Ngă Tướng, dịch giả Phạm Kim Khánh
Ngữ
Lục (đến đời Lục Tổ):
Sáu cửa Thiếu Thất,
Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên
Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục
Tổ, dịch giả Thích Duy Lực
Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục
Tổ, dịch giả Thích Minh Trực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác,
dịch giả Trúc Thiên
Ngữ
Lục (sau đời Lục Tổ):
Bá Trượng Ngữ
Lục, dịch giả Thích Duy Lực
Truyền Tâm Pháp Yếu, Hoàng
Bá, dịch giả Thích Duy Lực
Cội nguồn truyền
thừa và phương pháp tu tŕ của thiền tông,
Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn tâm trực thuyết,
Phổ Chiếu
Lâm Tế Ngữ Lục
Thiền Đốn Ngộ, nhiều
tác giả : Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành
Kim, Oánh Sơn, Hư Vân;
dịch giả Thích Thanh Từ
Tọa Thiền Luận,
Đại Giác, dịch giả Như Hạnh
Tu tâm quyết, Phổ
Chiếu
Sách :
Tứ Diệu Đế, Thích Thiện Hoa
Thiền Sư Việt Nam,
Thích Thanh Từ
Tổ Thiền Tông, Thích Thanh
Từ
Thiền Luận, Tập Thượng . Suzuki, dịch giả Trúc Thiên
*
* Lê Anh Chí *.
______________
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
--------------------------------------------------------------
* Trang Chính
* M ụ c L ụ c * Đoản Luận
* Thơ *
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Bài mới * Nối kết Trang Nhà Phật
Pháp Việt Nam *
------------------------------------------------------------------------------