Phải vất ‘‘nhân tâm’’ ra khỏi ‘‘Trực
chỉ’’ (để tránh hiểu lầm)
( Câu thứ ba của
bài kệ là ‘‘Trực chỉ Chân-tâm’’ hoặc
‘‘Trực chỉ minh tâm’’ )
Lê Anh Chí
__________________________________________
Dàn Bài :
I) Nếu phải lựa chọn
giữa ‘‘nhân tâm’’ và‘‘Chân Tâm’’ th́ . . .
II) Trực chỉ minh tâm
III) Tổ Đạt Ma :‘‘Trực
chỉ Chân Tâm’’ và ‘‘Trực chỉ minh tâm’’
IV) Ngũ Tổ: ‘‘Trực chỉ Chân
Tâm’’ và ‘‘Trực chỉ minh tâm’’
V) Lục Tổ: ‘‘Trực chỉ Chân
Tâm’’ và ‘‘Trực chỉ minh tâm’’
VI) Chữ ‘‘nhân tâm’’ có nghĩa xấu,
gần như tương đương với ‘‘ḷng lang
dạ thú’’
VII) ‘‘Trực chỉ nhân tâm’’ = = >
Phân-tâm học
VIII) ‘‘Trực chỉ nhân tâm’’ = = >
pháp môn hạng bét
IX) Thiền sư Nguyệt Khê
giảng ‘‘chân tâm’’ và ‘‘minh tâm Kiến Tánh’’ thay v́ ‘‘Trực
chỉ nhân tâm’’
X) Câu thứ ba bài kệ là ‘‘Trực
chỉ Chân-tâm’’/‘‘Trực chỉ minh tâm’’
__________________________________________
Bài kệ nổi tiếng của
vị Tổ Sư của ta, bài kệ trấn sơn của
Thiền Tông :
Ngoài giáo truyền riêng
Chẳng
lập văn tự
Chỉ
thẳng nhân-tâm
Kiến
Tánh Thành Phật
cũng được truyền
tụng như sau :
Ngoài giáo truyền riêng
Chẳng
lập văn tự
Chỉ
thẳng Chân Tâm
Kiến
Tánh Thành Phật
khác nhau ở một chữ ở câu 3 (nhân
và chân ) :
Chỉ thẳng nhân-tâm
(Trực Chỉ Nhân Tâm)
và
Chỉ
thẳng chân-tâm (Trực
Chỉ Chân Tâm )
Bài viết
Trực
Chỉ Nhân Tâm hay Trực Chỉ Chân Tâm ?
đă bàn
luận xem trong 2 câu trên, câu nào hợp lư hơn (
hợp với lư thiền Thiền Tông hơn ), hợp
với tinh thần Thiền Tông hơn, hợp với cách
hành đạo Thiền Tông hơn ; và ta đến
kết luận: Nhân Tâm và Chân Tâm đều hợp lư
a) nếu nói ‘Nhân Tâm’ là nói căn cơ
của học tṛ
Nguyên lư của Phương Thức
Thiền Tông là "Khéo dùng phương tiện !
" Khéo dùng phương tiện để trực chỉ
chân tâm.
(Xem bài " Nguyên Lư Phương
Thức Thiền Tông ")
Mà phương tiện được
khéo dùng nếu vị thiền-sư chỉ vào căn cơ
của học tṛ.
b) Chân Tâm : mục đích của
pháp môn
mục đích của Thiền Tông bao
giờ cũng là Phật Tánh. do đó pháp môn bao giờ
cũng có mục đích là
Trực Chỉ Chân Tâm ! Khi nhấn mạnh vào mục
đích th́ nên dùng câu Trực Chỉ Chân Tâm !
I) Nếu phải lựa chọn
giữa ‘‘nhân tâm’’ và‘‘Chân Tâm’’ th́ . . .
Nếu phải chọn lựa
giữa ’ Nhân Tâm’ và ‘Chân Tâm’ th́ sao ?
_Th́ tôi bắt buộc phải
chọn’Trực Chỉ Chân Tâm’ :
1) Mục đích bao giờ cũng là
Phật Tánh. do đó cuối cùng lúc nào cũng là Trực
Chỉ Chân Tâm .
2) Vả lại, đây là bài kệ
‘tŕnh làng’, bài kệ mà Tổ Đạt Ma bày tỏ
cương lĩnh của Thiền Tông ; so sánh với
các tông phái đương thời ở Trung Hoa. Do đó
phải nói cái thiết yếu căn bản của pháp môn
Kiến Tánh : Chân Tâm ! Nếu nói Trực Chỉ Nhân
Tâm th́ làm sao người ta có thể tin rằng sẽ
Kiến Tánh ?
Thế nên, nếu phải chọn
lựa giữa .’ Nhân Tâm’ và ‘Chân Tâm’ th́ bài kệ bắt
buộc phải là :
Ngoài giáo truyền riêng
Chẳng
lập văn tự
Chỉ
thẳng Chân Tâm
Kiến
Tánh Thành Phật
II) Trực chỉ minh tâm
Câu chuyện như vậy xem như
đă giải quyết xong ? _Nhưng không ! tôi
nghĩ rằng c̣n có một đáp án khác. Câu thứ ba
của bài kệ có thể là :
_Trực Chỉ MINH Tâm !
Xem
( Trực Chỉ
Nhân Tâm hay Trực Chỉ Chân Tâm
? [2] )
III) Tổ Đạt Ma:‘‘Trực
chỉ Chân Tâm’’ và ‘‘Trực chỉ minh tâm’’
Tổ Đạt Ma đă giảng ‘‘Trực
chỉ Chân Tâm’’ và ‘‘Trực chỉ minh tâm’’.
Xem bài
Tổ Đạt Ma và bài kệ của
Tổ Đạt Ma
IV) Ngũ Tổ: ‘‘Trực chỉ Chân
Tâm’’ và ‘‘Trực chỉ minh tâm’’
Ngũ Tổ đă giảng ‘‘Trực
chỉ Chân Tâm’’ và ‘‘Trực chỉ minh tâm’’.
Xem bài
Ngũ
Tổ và bài kệ của Tổ Đạt Ma
V) Lục Tổ: ‘‘Trực chỉ Chân
Tâm’’ và ‘‘Trực chỉ minh tâm’’
Lục Tổ đă giảng ‘‘Trực
chỉ Chân Tâm’’ và ‘‘Trực chỉ minh tâm’’.
Xem bài
Lục
Tổ và bài kệ của Tổ Đạt Ma
VI) Chữ ‘‘nhân tâm’’ có nghĩa xấu,
gần như tương đương với ‘‘ḷng lang
dạ thú’’
Chữ ‘‘nhân tâm’’, tiếng Hán Việt
, và chữ ‘‘ḷng người’’, tiếng nôm, thường
được dùng với nghĩa xấu, gần như
tương đương với ‘‘ḷng lang dạ thú’’
1) Ví dụ về ‘‘nhân tâm’’
nhân
tâm nan trắc
tối
độc phụ nhân tâm
2) Ví dụ về ‘‘ḷng người’’
_Câu ca dao
Ḍ
sông ḍ biển dễ ḍ
Có ai
lấy thước mà đo ḷng người
_Ḷng người độc như
rắn rết
_Ḷng người độc hơn
rắn rết
VII) ‘‘Trực chỉ nhân tâm’’ = = >
Phân-tâm học
Phần đông những người
dùng ‘‘Trực chỉ nhân tâm’’ làm phương châm tu hành
trở thành những học tṛ của khoa Phân-tâm học.
Bởi v́ ‘‘nhân tâm’’ là ‘‘vọng tâm’’, là vọng-ngă mà, nên
họ tha hồ ngồi đó, tha hồ phân tích
‘‘vọng tâm’’, tha hồ phân tích
vọng-ngă (mà họ gọi là băn ngă) và gọi đó là tu
hành !
Tha hồ phân tích như vậy rồi
để làm ǵ ? Làm sao chứng ngộ Chân-tâm,
Phật-tánh ?
_Họ không có câu trả lời
thỏa đáng cho câu hỏi này,.
VIII) ‘‘Trực chỉ nhân tâm’’ = = >
pháp môn hạng bét
1) V́ ‘‘Trực chỉ nhân tâm’’ = = >
Phân-tâm học
Cho nên
‘‘Trực
chỉ nhân tâm’’ = = > pháp môn hạng bét
2) Những người thấy
cần phải được ‘‘Trực chỉ nhân
tâm’’ ; để phân tích tâm trạng nội tại
của ḿnh, chính ra là những kẻ hạ trí hạ
căn !
Tâm nổi lên ḷng tham, đố
kỵ, ghét ghen vv ; những điều đó dễ
thấy. Thật dễ ợt để thấy những
tâm trạng nội tại hạng bét của ḿnh.
Cho nên
‘‘Trực
chỉ nhân tâm’’ = = > pháp môn hạng bét
3) Nói một cách khác,
nhân
tâm là cái thá ǵ mà phải trực chỉ ?
4) Chính ra, tại v́
ta
thấy rằng cuộc đời là bể khổ
ta
thấy rằng những tâm trạng nội tại của
ḿnh là hạng bét
cho nên ta mới tu hành
5) Nếu hiểu tu hành là phân tích tâm
trạng nội tại của ḿnh th́ pháp môn đó c̣n kém
pháp của nhà đại nho Vương Thông đời Tùy:
_Tự biết là Anh tự thắng là
Hùng
v́ Vương Thông có nói rơ là phải
‘tự thắng’ sau khi ‘tự biết’
6) Nhắc lại Thiền-tông là pháp
môn Tối Thượng Thừa:
a) Mục đích Thiền-tông là
Kiến Tánh là chứng ngộ Phật Tánh
Kiến Tánh là chứng ngộ Phật
Tánh
Phật Tánh là Chân Tâm là Chân Như là
Thường, Lạc, Ngă, Tịnh . . .
b) Cần biết rơ
_Chân Tâm
_Mục đích Thiền-tông
mới có thể tu theo Thiền-tông
Điều kiện tiên quyết
để tu theo Thiền-tông là phải hiểu biết tin
nhận Chân Tâm.
c) C̣n Biết ḿnh , tức là biết
Vọng Tâm của ḿnh, có cần không ?
_Thiền-tông là pháp môn Tối
Thượng Thừa, việc ‘‘biết Vọng Tâm của
ḿnh’’ là quá dễ, Thiền-tông miễn nói đến !
IX) Thiền sư Nguyệt Khê
giảng ‘‘chân tâm’’ và ‘‘minh tâm Kiến Tánh’’ thay v́ ‘‘Trực
chỉ nhân tâm’’
Thiền sư Nguyệt Khê là một
trong ba Thiền sư cận đại , đă Kiến Tánh
của Trung Hoa. Đóng góp của Thiền sư Nguyệt
Khê cho Thiền Tông : nhờ Thiền sư Nguyệt Khê
mà chúng ta biết tại sao ‘tham thoại đầu‘
lại có thể đưa đến sự Kiến Tánh.
Trong Cội nguồn truyền thừa
và phương pháp tu tŕ của thiền tông, ======= Thiền
sư Nguyệt Khê:
Định
nghĩa của Thiền Đốn Ngộ là "Chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành
Phật". Tại sao phải
chỉ thẳng tâm người, chẳng lập văn
tự? V́ văn tự là một tên gọi giả danh,
phải qua suy nghĩ rồi mới có thể biểu
hiện ra, nên chỉ là một việc gián tiếp, c̣n bản
thể của chơn tâm (cũng gọi là tự tánh) là
một sự thực tế rốt ráo, cảnh giới
ấy chẳng dùng kinh nghiệm suy nghĩ mà đến
được, vậy cách gián tiếp ngôn ngữ văn
tự, tự nhiên chẳng có cách để diễn tả.
Nên Phật Thích Ca nói: "Ta thuyết pháp 49 năm, chưa
từng nói một chữ", lại nói: "Kinh giáo
liễu nghĩa như ngón tay chỉ mặt trăng,
nếu thấy được mặt trăng th́ biết
ngón tay chẳng phải mặt trăng". Thế th́ ngôn
ngữ văn tự là ngón tay để chỉ mặt
trăng, nhưng ngón tay chẳng phải mặt trăng,
chỉ là một việc gián tiếp, sự chỉ thị
gián tiếp dù cũng là một phương pháp để
đạt đến bản thể chơn tâm,
nhưng chẳng bằng sự rốt ráo giản dị
của chỉ thị trực tiếp, lại sự
chỉ thị của ngón tay (ngôn ngữ văn tự)
truyền đến đời sau, có người lại
nhận lầm cho ngón tay tức là mặt trăng . . . ========
Đoạn trên, tuy viết ‘‘Trực
chỉ nhân tâm’’, Thiền sư Nguyệt Khê chỉ
giảng ‘‘chân tâm’’ mà thôi.
Đến chương sau, Thiền
sư Nguyệt Khê lại giảng ‘‘chân tâm’’ và ‘‘minh tâm
Kiến Tánh’’ thay v́ ‘‘Trực chỉ nhân tâm’’ :
===== Mục đích của Tham
thiền là ǵ? Là muốn minh tâm kiến tánh. Cái quả minh
tâm kiến tánh như thế nào? Là thấu triệt bổn
nguyên, vượt ngoài tam giới, liễu thoát sanh tử,
chẳng thọ hậu hữu, độ ḿnh độ
người, phổ lợi chúng sanh. Ấy là mục
đích cuối cùng của loài người.
Nhưng muốn minh tâm kiến tánh,
trước tiên phải rơ thế nào là tâm tánh. Tâm tánh là
bổn nguyên tự tánh của chúng sanh, cũng gọi là
Phật tánh, hoặc gọi Chơn như, Như lai.
Thiền tông gọi là Bổn lai diện mục,. . .
nói "Tâm tánh" là chỉ ngay
Chơn như tự tánh, chẳng phải tâm tánh của
người đời. Người đời nói
"tâm" ấy là vọng tâm, tức là vô minh, nay
muốn minh tâm là minh cái tâm chơn thật cùng tột,
nên gọi là Chơn như =====
X) Câu thứ ba bài kệ là ‘‘Trực
chỉ Chân-tâm’’/‘‘Trực chỉ minh tâm’’
Bởi v́ :
_Tổ Đạt Ma đă giảng
‘‘Trực chỉ Chân Tâm’’ và ‘‘Trực chỉ minh tâm’’.
_Ngũ Tổ đă giảng ‘‘Trực
chỉ Chân Tâm’’ và ‘‘Trực chỉ minh tâm’’.
_Lục Tổ đă giảng
‘‘Trực chỉ Chân Tâm’’ và ‘‘Trực chỉ minh tâm’’.
_Chữ ‘‘nhân tâm’’ có nghĩa xấu,
gần như tương đương với ‘‘ḷng lang
dạ thú’’
_‘‘Trực chỉ nhân tâm’’ dễ
bị hiểu lầm thành môn Phân-tâm học
_‘‘Trực chỉ nhân tâm’’ dễ
bị hiểu lầm thành pháp môn hạng bét
_Thiền sư Nguyệt Khê giảng
‘‘chân tâm’’ và ‘‘minh tâm Kiến Tánh’’ thay v́ ‘‘nhân tâm’’ mặc dù
Thiền sư đă viết‘‘Trực chỉ nhân tâm’’
Cho nên,
Câu
thứ ba bài kệ của Tổ Đạt Ma là ‘‘Trực
chỉ Chân-tâm’’/‘‘Trực chỉ minh tâm’’
Và ta có thể xem câu‘‘Trực chỉ
nhân tâm’’, trong lần xuất bản đầu tiên (khoàng
sáu trăm năm sau khi Tổ Đạt Ma đến Trung Hoa), của bài kệ
của Tổ Đạt Ma như là một sự lầm
lẫn.
*
*
* Lê Anh Chí *.
_____________
Kinh sách tham khảo
Kinh :
Kinh
Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh
Đại
Thừa Kim Cang Kinh Luận
Cuộc
đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch
giả Thích Trung Quán
Kinh
Trường A Hàm, dịch
giả Thích
Thiện Siêu
Kinh
Kim Cang, dịch giả Đoàn Trung C̣n
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh
Kim Cang và Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú
giải : Thích Huyền Vi
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Duy Lực
Ngữ Lục (đến đời
Lục Tổ):
Sáu
cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ,
dịch giả Trúc Thiên
Luận
Tối Thượng Thừa , Ngũ Tổ, dịch
giả Thích Thanh Từ
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh
Trực
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy
Lực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác, dịch giả Trúc Thiên
Ngữ Lục (sau đời Lục
Tổ):
Bá
Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy
Lực
Truyền
Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy Lực
Cội
nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của
thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn
tâm trực thuyết, Phổ Chiếu
Lâm
Tế Ngữ Lục
Thiền
Đốn Ngộ, nhiều tác giả :
Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành Kim, Oánh
Sơn, Hư Vân; dịch
giả Thích Thanh Từ
Tọa
Thiền Luận, Đại Giác, dịch giả Như
Hạnh
Tu tâm
quyết, Phổ Chiếu
Sách :
Tứ Diệu
Đế, Thích Thiện Hoa
Thiền
Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ
Tổ
Thiền Tông, Thích Thanh Từ
Cao Tăng Dị
Truyện, Hạnh Huệ biên dịch
Thiền Luận,
Tập Thượng . Suzuki, dịch giả
Trúc Thiên
*
*
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
-------------------------------------------------------
* Trang Chính
* M
ụ c L ụ c * Đoản
Luận * Thơ *
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Nối kết Trang Nhà Phật
Pháp Việt Nam * Nối kết Văn Học *
------------------------------------------------------------------------------
* Bài
Xưa
* Bài
mới Kiến Tánh * Bài
mới Trang LêAnhChí *
---------------------------------------------------------------