Lục Tổ và bài kệ của Tổ Đạt Ma

 

             Lê Anh Chí

__________________________________________

 

Dàn Bài:

I) Lời buộc tội của Tông Giám

II) Tổ Nam Tuyền Phổ Nguyện không nói dối !

III) Cách hành đạo của Lục Tổ và bài kệ của Tổ Đạt Ma

IV) Ngoài giáo truyền riêng và Kim Cang Tâm Truyền

V) Chẳng lập văn tự

VI) Trực Chỉ Chân Tâm

VII) Kiến Tánh Thành Phật

VIII) Trực Chỉ MINH Tâm

IX) Trước Nam Tuyền Phổ Nguyện 3 đời, Thiền Tông đă thực hành bài kệ của Tổ Đạt Ma

__________________________________________

 

 

Bài kệ của Tổ Đạt Ma

       Ngoài giáo truyền riêng

       Chẳng lập văn tự

       Trực Chỉ Chân Tâm / Trực Chỉ MINH Tâm

       Kiến Tánh Thành Phật

( xem bài       Trực Chỉ. . . MINH Tâm !  )

 

Tông Giám (1257) buộc tội Nam Tuyền Phổ Nguyện nói dối : đă "sáng tác" ra bài kệ, rồi lừa dối chúng sinh bảo đó là của Tổ Đạt Ma.

Suzuki, trong Thiền Luận, Tập Thượng, tin lời buộc tội của Tông Giám.

Nhiều Phật Tử Thiền Tông cũng tin điều này; cứ sử gia, khảo cổ gia nói ǵ là tin ngay, vô h́nh chung, phỉ báng Tổ Thiền Tông!

Thiệt là tệ hại ! Tệ hại nhất là Suzuki đă nêu gương xấu.

 

Bài viết này là một trong ba bài luận minh oan cho Nam Tuyền Phổ Nguyện .

Ba bài luận này giống nhau ở hai đoạn :

       I) Lời buộc tội của Tông Giám

       II) Tổ Nam Tuyền Phổ Nguyện không nói dối !

Tôi lập lại hai đoạn này trong ba bài luận để bảo đảm sự liên tục của luận lư.

 

 

 

I) Lời buộc tội của Tông Giám

 

Một nhà chú giải nổi tiếng, Suzuki, viết trong Thiền Luận, Tập Thượng :

{{  Cuốn sử Thiền mở đầu với Bồ Đề Đạt Ma sang Trung Quốc vào năm 520 sau TL, mang theo một thông điệp thù thắng. Thông điệp ấy được tóm tắt bằng mười sáu chữ này :

Chẳng lập văn tự

Truyền riêng ngoài giáo

Trỏ thẳng tâm người

Thấy tánh thành Phật

Nêu lên cơ bản lập giáo của đạo Thiền khác hẳn với các môn phái Phật giáo khác đương thời có ở Trung Hoa, bốn câu ấy không phải của Đạt Ma mà do đời sau đề ra. Thiếu tài liệu xác đáng, ta không thể quyết đoán tác giả là ai. Theo sử gia Tông Giám (?) tác giả bộ "Pháp chánh truyền của Phật Thích Ca", soạn năm 1257, và soạn theo quan điểm Thiên Thai Tông, đó là sáng kiến của Nam Tuyền Phổ nguyện; chắc rằng công thức ấy ra đời khi Thiền đang hồi cực thạnh ở Giang Tây và Hồ Nam với các đại sư Mă Tổ, Bách Trượng, Huỳnh Bá, Thạch Đầu và Dược Sơn; và từ đó thông điệp ấy được coi là đặc trưng Thiền,   }}

 

Theo trích dẫn trên th́ Suzuki tin lời buộc tội của Tông Giám.

Lời buộc tội của Tông Giám là :

_bốn câu kệ này không phải của Đạt Ma

_Nam Tuyền Phổ Nguyện nói dối : đă "sáng tác" ra bài kệ, rồi lừa dối chúng sinh bảo đó là của Tổ Đạt Ma.

 

Nhiều Phật Tử cũng tin điều này; cứ sử gia, khảo cổ gia nói ǵ là tin ngay, vô h́nh chung, phỉ báng Tổ Thiền Tông!

Thiệt là tệ hại ! Tệ hại nhất là Suzuki đă nêu gương xấu.

Suzuki và những Phật Tử đó có giữ ngũ giới không vậy ? Nếu họ giữ ngũ giới th́ họ đâu dám tin Tổ Thiền Tông nói dối !

 

 

II) Tổ Nam Tuyền Phổ Nguyện không nói dối !

 

Một khi Tổ Nam Tuyền Phổ Nguyện nói rằng bài kệ này của Tổ Đạt Ma, th́:

_ bài kệ đó chắc chắn chẳng phải của Nam Tuyền!

_xác suất 95% là bài kệ này của Tổ Đạt Ma :

a) Tổ Nam Tuyền biết như vậy do có thần thông

hoặc

b) Tổ Nam Tuyền được thầy dạy như vậy, thầy của thầy đă dạy như vậy v v . . . Sự truyền thụ này có thể đă tam sao thất bản v́: duyên nghiệp của Nhị Tổ (lang bạt giang hồ, bị tử h́nh) , pháp nạn thời Tam Tổ  v v.

 

Tổ Nam Tuyền Phổ Nguyện không nói dối !

 

C̣n sử gia Tông Giám lấy ḷng dạ tiểu nhân đo lường người quân tử, lấy ḷng dạ phàm nhân đo lường bậc thánh! mới dám bảo Tổ Nam Tuyền Phổ Nguyện  nói dối ! Vả lại, hắn là hậu sinh, lại chẳng phải là đệ tử Thiền Tông , làm sao biết Thiền Tông lưu truyền những ǵ ? Nhất là đây là pháp môn

       Ngoài giáo truyền riêng

       Chẳng lập văn tự    ?

C̣n bốn câu kệ này "ra đời" khi đang hồi cực thạnh Thiền Tông, th́ dĩ nhiên rồi ! Lúc sơ khai, Thiền Tông chỉ có lèo tèo vài người, th́ người đời làm sao nghe nói được đến công thức ấy!

 

Tôi tha thiết khẩn cầu những vị Phật Tử Thiền Tông, những vị tin rằng Tổ Thiền Tông nói dối, tha thiết khẩn cầu những vị Phật Tử này , xin hăy ly khai Thiền Tông!

 

Trở về vấn đề của bài viết : Tổ Nam Tuyền Phổ Nguyện không nói dối !

Tại v́ trong Phật Pháp, Trực Tâm là đạo tràng.

Người cư sĩ chỉ có 5 giới. Vậy mà, trong ngũ giới lại có ‘Không Nói Dối’.

Không những thế, trong 4 giới c̣n lại :

       Không trộm cắp

       Không tà dâm

cũng từ Trực Tâm mà ra.

Tóm lại, trong ngũ giới có ba giới liên quan đến Trực Tâm !

 

Trực Tâm là điều kiện cần ( nhưng không đủ ) để đắc đạo. Nếu tâm mà lươn lẹo, xảo trá th́ chẳng thể :

_NHẢY Một Cái vào thẳng đất Như Lai !

Trực Tâm là đạo tràng :

             Cùng nhân thế, thênh thang chân thực,

             Chẳng dối lừa, giành giựt , ghét ghen,

                  Mảnh trăng treo cửa làm đèn,

              Tâm này trăng nọ đóa sen chân t́nh !

                    (Trực Tâm Ca, Lê Anh Chí )

 

 

III) Cách hành đạo của Lục Tổ và bài kệ của Tổ Đạt Ma

 

Pháp Thiền của Lục Tổ nên được hiểu như sau :

       Ngoài giáo truyền riêng và Kim Cang Tâm Truyền

       Chẳng lập văn tự

       Trực Chỉ Chân Tâm / Trực Chỉ MINH Tâm

       Kiến Tánh Thành Phật

 

 

IV) Ngoài giáo truyền riêng và Kim Cang Tâm Truyền

 

_Kim Cang Tâm Truyền = dùng Kinh Kim Cang để Kiến Tánh, pháp của Ngũ Tổ

Gọi là Tâm Truyền, v́ chỉ dùng Kinh Kim Cang để thấy ChânTâm của ḿnh chớ chẳng phải học giáo lư. Tức là : Truyền Tâm từ Kinh Kim Cang

_Lục Tổ dĩ nhiên có giảng Kim Cang Tâm Truyền ( giảng Kiến Tánh từ Kinh Kim Cang ) v́ đó là sở ngộ của Tổ và v́ ngài là học tṛ Ngũ Tổ.

 

_Lục Tổ có tài trực chỉ. Trong PHÁP BẢO Đàn Kinh có chép nhiều trường hợp ‘Ngoài giáo truyền riêng’.

Ví dụ :

       Lục Tổ truyền riêng Huệ Minh.

       Lục Tổ truyền riêng Pháp Hải.

       Lục Tổ truyền riêng Pháp Đạt.

       Lục Tổ truyền riêng Trí Thông.

       Lục Tổ truyền riêng Trí Thương.

       Lục Tổ truyền riêng Chí Đạo.

 

 

V) Chẳng lập văn tự

 

1) ‘chẳng lập văn tự’

Trích PHÁP BẢO Đàn Kinh:

{{Thấy Huệ Năng nầy trả lời, ngôn ngữ giản dị, nghĩa lư thích đương, mà chẳng do văn tự. Ấn Tông nói rằng . . . }}

{{Bởi Bổn Tánh của ḿnh thường lấy trí huệ mà xem soi, cho nên chẳng cần dùng văn tự. }}

{{Sư nói: "Chữ th́ ta không biết, vậy xin hỏi nghĩa."

Ni cô nói: "Chữ c̣n chẳng biết, đâu hiểu nghĩa." Sư nói: "Cái diệu lư của chư Phật chẳng có quan thiết ǵ với văn tự." }}

Đoạn trên nói ư chẳng lập văn tự của Lục Tổ.

 

2) ‘chẳng lập văn tự’ là thuật ngữ thường dùng

 

Trích PHÁP BẢO Đàn Kinh:

{{Bằng tánh ḿnh toàn chấp không, tức là làm lớn thêm sự vô minh. Người chấp "không" thường có ư chê kinh, nói rằng chẳng dùng văn tự. Đă rằng chẳng dùng văn tự, lẽ th́ họ chẳng nói ra lời mới phải, v́ lời nói ra tức là cái tướng của văn tự.  Lại nói Chánh Đạo chẳng lập văn tự, mà hai chữ "chẳng lập" đó cũng là văn tự!  Hễ thấy người ta nói th́ chê lời nói của người là chấp truớc văn tự. }}

 

Đoạn này cho thấy rằng ‘chẳng lập văn tự’ là thuật ngữ thường dùng lúc đó và có trước thời Lục Tổ. . Thế nên , Lục Tổ dùng mà không giải thích (Để ư những chữ nổi ).

 

3) ‘chẳng lập văn tự’ không có nghĩa là chẳng dùng văn tự

Xin lập lại :

{{ lời nói ra tức là cái tướng của văn tự.  Lại nói Chánh Đạo chẳng lập văn tự, mà hai chữ "chẳng lập" đó cũng là văn tự!  Hễ thấy người ta nói th́ chê lời nói của người là chấp truớc văn tự. }}

 

Ở phần 1) , Lục Tổ đă giảng ‘chẳng lập văn tự’.

Ở đây,  nói ư không nên chấp ‘chẳng lập văn tự’ v́ ‘chẳng lập văn tự’ không có nghĩa là chẳng dùng văn tự

 

 

VI) Trực Chỉ Chân Tâm

 

Trực Chỉ Chân Tâm trong PHÁP BẢO Đàn Kinh:

 

{{ Hiểu rơ pháp Đốn Giáo tu hành mà không chấp bề ngoài, trong tâm ḿnh thường khởi chánh kiến, những sự phiền lao thường chẳng nhiễm Bổn tâm ḿnh tức là người thấy tánh.

 Chư Thiện tri thức, tâm ḿnh trong ngoài chẳng trụ, lui tới tự do, bỏ đặng ḷng chấp trước, suốt thông không trở ngại, tu trọn các hạnh ấy, th́ đối với kinh Bát Nhă vốn không chỗ nào sai khác.

 Kinh Bồ Tát Giới có nói rằng: " Cái Bổn Nguyên tự tánh của ta vốn trong sạch.  Nếu biết tâm ḿnh và thấy tánh ḿnh, th́ thành Phật đạo."  Kinh Tịnh Danh có nói: "Tức thời tâm trí thông suốt, th́ phục hồi đặng Bổn Tâm." }}

 

 

VII) Kiến Tánh Thành Phật

 

Lục Tổ khẳng định Kiến Tánh là Thành Phật, trong PHÁP BẢO Đàn Kinh:

{{

Ḷng không nhớ, không dính cảnh, không sanh điều dối giả, dùng tánh Chơn Như của ḿnh, lấy trí huệ xem soi, đối với cả thảy các pháp không lấy, không bỏ, tức là thấy tánh, là thành Phật đạo vậy.

. . .

Kinh Bồ Tát Giới có nói rằng: " Cái Bổn Nguyên tự tánh của ta vốn trong sạch.  Nếu biết tâm ḿnh và thấy tánh ḿnh, th́ thành Phật đạo."

. . .

Đạo Phật cao hơn hết thề nguyền tu đến thành công, nghĩa là đă thường hạ cái tâm, làm việc chơn thành, ĺa mê ĺa giác, thường sanh Bát Nhă, bỏ chơn trừ vọng, tức khắc thấy tánh Phật. Ấy là nghe nói pháp rồi, liền thành Phật đạo.

}}

 

 

VIII) Trực Chỉ MINH Tâm

 

Lục Tổ dùng chữ MINH Tâm và ‘tâm tỏ sáng’ hay ‘tỏ sáng tâm’ (đều có nghĩa là MINH Tâm) để diễn tả sự Kiến Tánh . Và diễn tả pháp của ngài là MINH Tâm (làm sáng Tâm).

Trích Kinh Pháp Bảo Đàn (dịch giả Thích Minh Trực) :

{{ _Sư lại nói kệ rằng: 

Ông tên là Pháp Đạt 
Siêng tụng hoài, không dứt 
Tụng không theo âm thinh 
Minh Tâm mới gọi Phật

_thấy một người khách tụng kinh. Huệ Năng này nghe qua, tâm liền mở mang tỏ sáng, mới hỏi khách tụng kinh ǵ?

_C̣n Pháp th́ lấy tâm truyền tâm, khiến cho người tự ḿnh tỏ sáng, tự ḿnh hiểu biết. Từ xưa, Chư Phật chỉ truyền cái Bổn Thể , và chỉ trao kín cái Bổn Tâm mà thôi.

_Huệ Năng này sanh tại xứ dă man, giọng nói nặng âm thổ ngữ, nhờ Tổ Sư truyền pháp, nay đă được tỏ sáng, th́ chỉ nên lấy tánh ḿnh mà độ ḿnh mới phải." 

_Nguyên người tiểu căn có trí Bát Nhă cũng như người đại trí, không có chỗ ǵ khác.  Nhưng bởi cớ sao họ nghe pháp mà ḷng chẳng tự mở mang tỏ sáng ?

_Cái Trí Bát Nhă vốn không lớn nhỏ, chỉ v́ cái tự tâm của chúng sanh mê ngộ chẳng đồng mà thôi. Ḷng mê chỉ thấy bề ngoài, tu hành t́m Phật mà chưa tỏ sáng Bổn Tánh của ḿnh, tức là người tiểu căn.

_Bởi vậy, ta mới đem giáo pháp này mà lưu hành, khiến cho các người học đạo liền tỏ sáng tâm Bồ Đề, mỗi người tự xem Bổn Tâm của ḿnh và tự thấy Bổn Tánh của ḿnh. Nếu tự ḿnh chẳng tỏ sáng, th́ phải t́m bực Đại Thiện Tri Thức giảng giải pháp Tối Thượng Thừa và chỉ ngay con đường Chánh Giác cho ḿnh

_Chư Thiện tri thức, đă quy y ba pháp báu ở tánh ḿnh rồi, các vị hăy chí tâm, ta nói cho mà rơ cái pháp Phật Một Thể Ba Thân Trong Tánh Ḿnh, khiến cho các vị thấy ba thân rơ ràng, tự tánh ḿnh tỏ sáng tánh ḿnh.

_Chư Thiện tri thức, Trí như mặt trời, Huệ như mặt trăng.  Trí Huệ thường sáng, nhưng bởi tâm dính níu cảnh vật ở bên ngoài, rồi bị mây vọng niệm của ḿnh che án tánh ḿnh, nên Trí Huệ chẳng đặng tỏ sáng

_Chư Thiện tri thức, cái Pháp thân vốn là đầy đủ. Niệm niệm tánh ḿnh tự nhiên hiện ra tỏ sáng, tức là Báo Thân Phật

 

Nhận xét :

_Lục Tổ dùng chữ Minh Tâm hay ‘tâm tỏ sáng’ hay ‘tỏ sáng tâm’ (đều có nghĩa là MINH Tâm) để diễn tả sự Kiến Tánh

_Lục Tổ dùng chữ Minh Tâm và nghĩ rằng ai cũng hiểu, v́ Minh Tâm là thuật ngữ thông dụng, ngay từ thời đó và trước thời đó. Tôi đoán rằng : a) Lục Tổ học được chữ này khi giă gạo 8 tháng ở chùa Ngũ Tổ  b) Minh Tâm rất thông dụng v́ xuất phát từ bài kệ của Tổ Đạt Ma.

 

 

IX) Trước Nam Tuyền Phổ Nguyện 3 đời, Thiền Tông đă thực hành bài kệ của Tổ Đạt Ma

 

Nam Tuyền Phổ Nguyện là học tṛ Mă Tổ, Mă Tổ là học tṛ Hoài Nhượng, Hoài Nhượng là học tṛ Lục Tổ.

Từ Lục Tổ đến Nam Tuyền Phổ Nguyện tổng cộng có 4 đời.

 

Trước Nam Tuyền Phổ Nguyện 3 đời, Thiền Tông đă thực hành bài kệ của Tổ Đạt Ma. Lục Tổ hành đạo theo :

       Ngoài giáo truyền riêng và Kim Cang Tâm Truyền

       Chẳng lập văn tự

       Trực Chỉ Chân Tâm / Trực Chỉ MINH Tâm

       Kiến Tánh Thành Phật

 

Đặc biệt là có bằng chứng cho thấy hai thuật ngữ ‘Chẳng lập văn tự’ và ‘MINH Tâm’ rất thường dùng ; Lục Tổ không giải thích hai thuật ngữ  này. Do đó, trễ nhất là đời Ngũ Tổ, người ta đă biết hai thuật ngữ này rồi !

 

Trước Nam Tuyền Phổ Nguyện 3 đời, Thiền Tông đă thực hành bài kệ của Tổ Đạt Ma. Như vậy th́ Nam Tuyền Phổ Nguyện đâu có bịa ra bài kệ của Tổ Đạt Ma, đâu có lừa dối chúng sinh !

 

*

*

* Lê Anh Chí *.

_____________

 

 

Kinh sách tham khảo

Kinh :

       Kinh Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh

       Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận

       Cuộc đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán

       Kinh Kim Cang, dịch giả Đoàn Trung C̣n

       Kinh Kim Cang, dịch giả Thích Trí Tịnh

       Kinh Kim Cang và Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú giải : Thích Huyền Vi

       Kinh Kim Cang, dịch giả Thích Duy Lực

Ngữ Lục (đến đời Lục Tổ):

       Sáu cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên

       Luận Tối Thượng Thừa , Ngũ Tổ, dịch giả Thích Thanh Từ

       Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh Trực

       Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy Lực

       Chứng Đạo Ca, Huyền Giác,  dịch giả Trúc Thiên

Ngữ Lục (sau đời Lục Tổ):

       Bá Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy Lực

       Truyền Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy Lực

       Cội nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền

       Chơn tâm trực thuyết, Phổ Chiếu

       Lâm Tế Ngữ Lục

       Thiền Đốn Ngộ, nhiều tác giả : Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành Kim, Oánh Sơn,  Hư Vân; dịch giả Thích Thanh Từ

       Tọa Thiền Luận, Đại Giác, dịch giả Như Hạnh

       Tu tâm quyết, Phổ Chiếu

Sách :

       Tứ Diệu Đế, Thích Thiện Hoa

       Thiền Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ

       Tổ Thiền Tông, Thích Thanh Từ

       Cao Tăng Dị Truyện, Hạnh Huệ biên dịch

       Thiền Luận, Tập Thượng . Suzuki, dịch giả Trúc Thiên

 

 

             Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com

        --------------------------------------------------------------

* Bài mới * Trang Chính * M ụ c  L ụ c  * Đoản Luận * Thơ *

------------------------------------------------------------------------------

* Hộp Thư  * Nối kết Trang Nhà Phật Pháp Việt Nam * Nối kết Văn Học *

------------------------------------------------------------------------------