Chánh định trong Phật Pháp
Lê Anh Chí
__________________________________________
Dàn Bài :
I) Tứ Thiền chẳng phải là
Chánh định
II) Tứ Thiền là Chánh định
nếu . . .
III) Nhị, Tam Thiền, Không Vô Biên . .
. là Chánh định nếu . . .
IV) Chánh định của Nhị thừa
là Diệt thọ tưởng định
V) Chánh định của Nhị
thừa là Sư Tử Phấn Tấn Tam Muội
VI) Chánh định của Bồ Tát là
Tứ Vô Lượng Tâm định
VII) Chánh định của
Thiền-tông là ‘‘đi đứng nằm ngồi
đều thấy Tánh’’
VIII) Sát-na định
IX) Niệm niệm Không Trụ
X) ‘‘Không trụ vào đâu cả !’’
__________________________________________
I) Tứ Thiền chẳng phải là
Chánh định
Tứ Thiền là thiền của phàm
phu ! Chữ phàm phu đây
dùng theo nghĩa nhà Phật, không có ư khinh miệt , không
giống như người đời thường dùng
chữ "phàm phu tục
tử". Phàm phu chỉ
có nghĩa là chưa đắc được quả thánh.
Thế nên các vị trời cơi Dục
giới, Sắc giới cho đến các vị trời cơi
Vô Sắc giới đều là phàm phu ! V́
không có ư khinh miệt nên gọi là
"các vị trời". V́ chưa đắc
quả thánh nên gọi là phàm phu.
Tứ Thiền thuộc về cơi
trời Sắc giới nên Tứ Thiền là thiền
của phàm phu, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa ! Ngay
đến những người mới học Phật,
đọc lịch sử của đức Thế Tôn,
cũng biết rằng cả Tứ Không ( từ Không Vô
Biên Xứ đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
Xứ) cũng chưa giải thoát.
Tứ Thiền là thiền của phàm
phu
Cho nên,
Tứ
Thiền chẳng phải là Chánh định
II) Tứ Thiền là Chánh định
nếu . . .
Tứ Thiền là Chánh định
nếu sự thực hành Tứ Thiền là phương
tiện:
_để đạt cái định
giải thoát là Diệt Thọ Tưởng Định
_để quán Vô thường,
Khổ, Không, Vô ngă mà giải thoát
Gọi là chánh, v́ mục đích là
giải thoát
Tứ Thiền là Chánh định
nếu Tứ Thiền là phương tiện, là một
giai đoạn thiền địnhđể đạt
giải thoát
III) Nhị, Tam Thiền, Không Vô Biên . .
. là Chánh định nếu . . .
Cũng như Tứ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền,
Không Vô Biên Xứ định . . . là Chánh định nếu
là những giai đoạn trong tiến tŕnh thiền
địnhđể đạt giải thoát, nếu là
những giai đoạn thiền định để
đạt Diệt thọ tưởng định
IV) Chánh định của Nhị
thừa là Diệt thọ tưởng định
Đắc Diệt thọ
tưởng định là đắc A La Hán.
Cho nên,
Chánh
định của Nhị thừa là Diệt thọ
tưởng định
V) Chánh định của Nhị
thừa là Sư Tử Phấn Tấn Tam Muội
Sư Tử Phấn Tấn Tam
Muội là xuất nhập định từ Sơ
thiền, Nhị thiền, . . . đến Diệt thọ
tưởng định theo hai chiều thuận nghịch:
Chiều
thuận :
từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam, Tứ thiền
đến Không Vô Biên, Thức Vô Biên, Vô Sở Hữu
Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng rồi nhập
Diệt thọ tưởng định.
Chiều
nghịch :
từ Diệt thọ tưởng định đến
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, Vô Sở Hữu Xứ,
Thức Vô Biên, Không Vô Biên , Tứ Thiền, Tam thiền , Nhị
thiền, Sơ thiền.
Kinh Trường A Hàm :
người tu tập thiền, nếu xuất nhập
định theo hai chiều thuận nghịch như
vậy, một cách thung dung tự tại th́
được giải thoát.
Trong tất cả phương pháp
thiền định để đạt A La Hán quả,
Sư Tử Phấn Tấn Tam Muội là
pháp thiền hùng hậu nhất.
Do đó, Đức Thế Tôn thị
hiện pháp thiền này trước khi Bát Niết Bàn.
Do đó,
Chánh
định của Nhị thừa là Sư Tử Phấn
Tấn Tam Muội
VI) Chánh định của Bồ Tát là
Tứ Vô Lượng Tâm định
Tứ Vô Lượng Tâm là Từ, Bi,
Hỉ , Xả
Bồ Tát thường rải Tứ
Vô Lượng Tâm đến tất cả chúng sinh
Chánh định của Bồ Tát là
Tứ Vô Lượng Tâm định
VII) Chánh định của
Thiền-tông là ‘‘đi đứng nằm ngồi
đều thấy Tánh’’
Mục đích cùa Thiền Tông là
Kiến Tánh. Thiền Tông là Pháp Môn Kiến Tánh. Kiến Tánh
là thể ngộ Phật Tánh, thể chứng Đại
Niết Bàn, chứng ngộ Thường, Lạc, Ngă,
Tịnh, chứng ngộ Bản Thể của Tâm .
Chánh định của Thiền-tông là
‘‘đi đứng nằm ngồi đều thấy Tánh’’
Một khi đi đứng nằm
ngồi đều thấy tánh, đều thấy Niết
Bàn, th́ đối với quan niệm tu hành của nhà
Phật, như vậy quả là thành Phật Đạo.
C̣n thần thông biến hóa, đối với nhà Phật,
chẳng phải là chánh pháp. Ngay cả những chánh
định của Nhị Thừa cũng chẳng quan
trọng, v́ lúc nào cũng thấy tánh : c̣n muốn ǵ hơn ?
Lúc nào cũng thấy tánh c̣n là
thường định , đối với Thiền Tông.
VIII) Sát-na định
Sát Na Định hiện
được "quảng cáo" bởi Thiền
Tứ-niệm-xứ.
Thiền Tứ-niệm-xứ là
_niệm thân
_niệm tâm
_niệm thọ
_niệm pháp
Trích
"9 yếu tố phát triển thiền quán" :
{{ Nếu hành giả có thể chú
niệm ngay từ khi đối tượng sắc phát
sinh, th́ hành giả có thể chú niệm sự sinh.
Đối tượng và tâm chú niệm hiện ra cùng
một lúc, ở mọi thời điểm. Đó là Sát Na
Định }}
Định môt thời gian rất
ngắn, rồi lại chuyển sang cái Định khác, nên
gọi là Sát Na Định
Chuyển sang cái Định khác v́
chuyển đối tượng của Định :
_đối tượng của
Định có khi là ‘giở chân lên’
_đối tượng của
Định một lúc sau lại là ‘bụng phồng lên
xẹp xuống’ (thở)
vv và vv
Sát Na Định rất nên được thực
hành bởi tất cả các tông phái.
Sát Na Định cũng
được nói đến trong Kinh Tâm Địa Quán
của Đại Thừa.
Khi Thiền Tông nói : đi
đứng nằm ngồi đều thiền ;
tức là nói đến Sát Na Định.
Có Sát Na Định , ta mới ư
thức được mỗi cử chỉ , hành
động, cho đến mỗi niệm. Ngược
lại, ư thức được mỗi cử chỉ ,
hành động, cho đến mỗi niệm : đó là
có Sát Na Định.
Hiểu như vậy, th́
thấy : Sát Na Định không ngược lại
với Thiền Tông.
Sát Na Định là chánh định
Có Sát Na Định rồi làm ǵ ?
_Mỗi tông phái trả lời câu
hỏi này mỗi khác.
IX) Niệm niệm Không Trụ
Ngũ Tổ dạy :
_Niệm niệm không trụ.
Đây là là tuyệt chiêu thứ nh́ của
Thiền-tông
Xem bài
Ngũ Tổ và Luc Tổ : niệm niệm không trụ !
Muốn làm được điều
này, th́ ta phải có Sát Na Định. Tức là ư thức
được mỗi niệm . Ư thức được
rồi, th́ ta mới không trụ vào niệm đó.
Tức là :
Niệm
niệm không trụ = Sát Na Định + Không Trụ
Không Trụ th́ chẳng phải là
định
Tuy nhiên, ta có thể ‘‘được ư
quên lời’’ mà nói rằng
‘‘Niệm
niệm không trụ’’ là Chánh Định của
Thiền-tông
X) ‘‘Không trụ vào đâu cả !’’
‘‘Không trụ vào đâu cả !’’
th́ Kiến Tánh
Xem bài
"Không trụ vào đâu cả ! " th́ Kiến Tánh tức th́ !
Yếu
chỉ Thiền Tông = Không trụ vào
đâu cả !
Đại
ư Kinh Kim Cang = Không trụ vào đâu cả !
‘‘Không trụ vào đâu cả !’’ là
tuyệt chiêu của Thiền-tông
Không Trụ th́ chẳng phải là
định
Tuy nhiên ta có thể ‘‘Y nghĩa bất
y ngữ’’ mà nói rằng
‘‘Không
trụ vào đâu cả !’’ là chánh định của
Thiền-tông
*
*
* Lê Anh Chí *.
_____________
Kinh sách tham khảo
Kinh :
Kinh
Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh
Đại
Thừa Kim Cang Kinh Luận
Cuộc
đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch
giả Thích Trung Quán
Kinh
Trường A Hàm, dịch
giả Thích Thiện
Siêu
Kinh
Kim Cang, dịch giả Đoàn Trung C̣n
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh
Kim Cang và Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú
giải : Thích Huyền Vi
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Duy Lực
Ngữ Lục (đến đời
Lục Tổ):
Sáu
cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ,
dịch giả Trúc Thiên
Luận
Tối Thượng Thừa , Ngũ Tổ, dịch
giả Thích Thanh Từ
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh
Trực
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy
Lực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác, dịch giả Trúc Thiên
Ngữ Lục (sau đời Lục
Tổ):
Bá
Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy
Lực
Truyền
Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy Lực
Cội
nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của
thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn
tâm trực thuyết, Phổ Chiếu
Lâm
Tế Ngữ Lục
Thiền
Đốn Ngộ, nhiều tác giả :
Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành Kim, Oánh
Sơn, Hư Vân; dịch
giả Thích Thanh Từ
Tọa
Thiền Luận, Đại Giác, dịch giả Như
Hạnh
Tu tâm
quyết, Phổ Chiếu
Sách :
Tứ Diệu
Đế, Thích Thiện Hoa
Thiền
Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ
Tổ
Thiền Tông, Thích Thanh Từ
Cao Tăng Dị
Truyện, Hạnh Huệ biên dịch
Thiền Luận,
Tập Thượng . Suzuki, dịch giả
Trúc Thiên
*
*
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
-------------------------------------------------------
* Trang Chính
* M
ụ c L ụ c * Đoản
Luận * Thơ *
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Nối kết Trang Nhà Phật
Pháp Việt Nam * Nối kết Văn Học *
------------------------------------------------------------------------------
Bài
mới Kiến Tánh * Bài mới Trang LêAnhChí *
--------------------------------------------------