"Không trụ vào đâu
cả !" th́ Kiến Tánh tức th́ !
(
Nguyên Lư Nguyên Lư Thiền Tông [6] )
Lê Anh Chí
__________________________________________
Dàn Bài :
Lời phi lộ
I) . . . v́ Phật nói như vậy (Kinh
Kim Cang)
I) Ba lần Phật nói "Không
trụ vào đâu cả ! " (Kinh Kim Cang)
III) Định đề Phật Tánh
10 : Tâm không trụ
IV) Tâm không trụ và "Không trụ
vào đâu cả !
"
V) Lời bạt : Bạt Tụy
pháp môn từ Đức Thế Tôn
và . . .
__________________________________________
Lời phi lộ
Bài viết này rất quan trọng, v́ tôi
chứng minh trong bài viết rằng Phật nói trong Kinh Kim
Cang :
_"Không trụ vào
đâu cả !"
th́ Kiến Tánh .
Đây là một khám phá
. . . vĩ đại, v́ xưa nay chưa có ai đưa ra
chứng minh này dưới dạng văn tự _mặc dù
tôi tin rằng Ngũ Tổ đă khám phá ra điều này. V́
sách vở Thiền Tông không hề ghi ‘chứng minh’ này
của Ngũ Tổ, nên ‘bằng cấp phát minh’ của
khám phá này, đành phải giao về cho . . . tôi.
Trước nay, tôi
đă nói nhiều về :
_"Không trụ vào đâu cả !" th́ Kiến
Tánh .
và tôi đă dùng kiến giải của
tôi để giải thích.
( Đó là các bài :
Đại
ư Kinh Kim Cang = Không trụ vào đâu cả !
Yếu
chỉ Thiền Tông = Không trụ vào
đâu cả !
Nguyên Lư Vượt Nhập và Phá Nhập
)
Nhưng bắt đầu từ nay,
tôi có thể bảo :
_"Không trụ vào đâu cả !" th́ Kiến
Tánh .
là chân lư.
Là chân lư v́ Phật đă nói như
thế.
Ta có thể nói rằng Cái Cửa Không
Cửa hay Cửa Ải Không Cửa của Thiền Tông (Vô
Môn Quan) thật ra là có cửa : đó là cửa "Không
trụ vào đâu cả !" .
Sự thực th́ từ ngày Ngũ
Tổ được truyền ngôi Tổ, th́ Thiền Tông
đă có cái cửa này !
Từ nay, những kiến giải
của tôi để giải thích
_"Không trụ vào đâu cả !" th́ Kiến
Tánh .
là phụ thuộc ; v́
mệnh đề trên đă được chứng minh là
chân lư !
Thậm chí, tôi cũng không cần nói
rằng tôi có thực chứng hay không, về
_"Không trụ vào
đâu cả !"
th́ Kiến Tánh .
v́ tôi đă chứng minh
rằng đó là chân lư !
Lư luận chứng minh của tôi không
khó. Đây là điều đáng ngạc nhiên lắm
lắm. Không khó, th́ tại sao xưa nay chưa có ai
đưa ra chứng minh này ???
Phải chăng chỉ v́ đây là
một sự bất ngờ ?
Bất ngờ, v́ không ai nghĩ
rằng Phật đă nói :
_"Không trụ vào đâu cả !" th́ Kiến
Tánh .
Không ai nghĩ rằng Phật đă
nói như vậy, v́ ai cũng nghĩ rằng Thiền Tông
là Cửa Không Cửa !
Sự bất ngờ này là do thành
kiến.
Không ai nghĩ rằng Phật đă
nói như vậy ; nên
mặc dù Phật đă nói như vậy mà biết bao nhiêu
nhân tài Thượng Trí Đại Căn của Thiền
Tông đă đọc Kinh Kim Cang, đă được
Ngũ Tổ huấn thị , vẫn không nhận ra
rằng Phật đă nói
_"Không trụ vào đâu cả !" th́ Kiến
Tánh .
Do đó, đây là một khám phá . . .
vĩ đại, dù cách chứng minh của tôi không có ǵ là
khó !
I) . . . v́ Phật nói như
vậy (Kinh Kim Cang)
"Không trụ vào đâu cả !
" th́ Kiến Tánh , v́ Phật nói như vậy trong Kinh
Kim Cang !
1) Kinh Kim Cang
Kinh Kim Cang là Kinh Thiền Tông . Thế
nhưng, những bản dịch Kinh Kim Cang hiện tại
không có bản nào chính xác. Có bản dịch sai hoàn toàn câu
kinh quan trọng nhất :
_Ưng
vô sở trụ nhi sanh
kỳ tâm.
( Câu này trước nay tôi vẫn
dịch là :" Không
trụ vào đâu cả mà
sanh tâm ! ")
V́ ở đây,
tôi muốn chứng minh rằng chính Phật nói "Không
trụ vào đâu cả ! " th́ Kiến Tánh , nên tôi trưng
ra những đoạn
kinh có chứa câu này
, bằng cách dịch
bản phiên âm chữ Hán và tham khảo 3 bản dịch.
2) Dịch và tham khảo 3 bản
dịch
Bản phiên âm chữ Hán dùng ở
đây là bản được đăng trong cuốn
sách :
_Chú giải Kinh Kim Cang và Chánh Pháp
chưa từng có (HT Thích Huyền Vi)
Tôi tham khảo
3 bản dịch của các dịch
giả sau : cư sĩ Đoàn Trung C̣n, HT Trí Tịnh và HT Duy Lực.
Ba bản này theo ư riêng
của tôi, là những bản dịch Kinh KIM CANG tương đối chính xác nhất
mà tôi đă
được đọc.
Phần chính những đoạn kinh, tôi dịch
theo kiến giải riêng, đó là câu đă nói ở
trên, " Không trụ vào đâu
cả mà sanh
tâm " và những câu tương
tợ ; ba bản kinh
cũng dịch gần giống như thế
, nhưng không dùng " Không trụ vào đâu
cả !" .
Thiết
nghĩ, muốn dịch Kinh Kim Cang cần có kiến
giải đúng về Thiền Tông ; HT Duy Lực là
người Thiền Tông , nhưng gốc người Hoa,
nên HT không thể dịch thông " Ưng vô sở
trụ " sang tiếng
Việt, v́ thế trong bản dịch HT vẫn để nguyên văn " vô sở trụ ".
3) Đoạn
Kinh có câu
" Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm "
a) Bản phiên
âm chữ Hán :
"Thị
cố, Tu-Bồ-Đề!
Chư Bồ Tát Ma Ha
Tát, ưng như thị sanh thanh tịnh
Tâm :
Bất
ưng trụ sắc sanh tâm
Bất
ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp,
sanh tâm
Ưng vô sở
trụ nhi sanh kỳ tâm.
"
b) Dịch :
"Này,
ông Tu-Bồ-Đề!
V́ thế bậc Đại Bồ Tát, phải nên sanh
tâm thanh-tịnh như vầy :
Không nên trụ
vào sắc mà sanh tâm.
Không nên trụ
vào thanh,
hương , vị , xúc, pháp mà sanh tâm.
Không trụ vào đâu cả mà sanh tâm ! "
c) Nhận xét :
Không trụ vào đâu cả mà sanh tâm !
sanh tâm ǵ ? _ sanh tâm
thanh tịnh !
Tâm thanh tịnh
ở đây là tâm Phật, là Chân Tâm, là Phật Tánh. Các
thiền sư thường dùng ‘tâm thanh tịnh’ theo
nghĩa này. Vả lại , ở đây , Phật dạy
các Đại Bồ Tát sanh tâm, th́ c̣n có tâm ǵ cao hơn
Đại Bồ Tát , ngoài tâm Phật ?
Tức là, Phật nói :
Bậc
Đại Bồ Tát, phải nên sanh tâm
Phật như
vầy :
Không trụ vào đâu cả mà sanh Phật Tâm.
Tức là ,
Không trụ vào đâu cả th́ sanh Phật Tâm.
Chữ
‘sanh’ ở đây chỉ là một cách nói : Phật Tánh vốn sẵn có, vốn Vô
Sinh, chẳng thể sanh ! Nói là ‘sanh’
bởi v́ khi tâm ta "Không trụ vào đâu
cả " th́ Phật Tánh hoát nhiên hiển
lộ, ta cảm thấy như là Phật Tánh phát sanh ra
vậy.
Tức là ,
Không trụ vào đâu cả th́ Phật Tánh hiển
lộ.
Tức là, Phật nói :
Không trụ vào đâu cả th́ Kiến
Tánh !
II)Ba lần Phật nói
"Không trụ vào đâu cả ! " (Kinh Kim Cang)
Trong
Kinh Kim Cang, Phật nói "Không trụ vào đâu cả !
" ba lần , để trả lời câu hỏi
của ông Tu-Bồ-Đề
1) Câu hỏi
của ông Tu-Bồ-Đề
"Bạch đức Thế-Tôn! người thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân,
phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, phải an trụ tâm như
thế nào, hàng-phục tâm ra làm sao?"
2) Lần thứ nhất nói "Không trụ vào đâu cả "
Đức Phật
dạy: "Hay thay! Hay thay!
Nầy ông Tu-Bồ-Đề! Đúng như lời của ông vừa
nói, đức Như-Lai khéo hay hộ-niệm các vị Bồ-tát,
và khéo hay
phó-chúc cho các vị Bồ-tát.
"Nay ông
nên lắng nghe, Ta sẽ v́ ông mà
nói. người
thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân,
phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, phải trụ tâm như
thế nầy, phải hàng-phục tâm như sau
. . .
Ông Tu-Bồ-Đề! Lại
nữa, bậc Bồ-tát, đúng nơi pháp, không
trụ vào đâu cả mà
làm việc bố-thí. Nghĩa là không
trụ vào sắc
mà bố-thí, không
trụ vào thanh, hương, vị, xúc, pháp,
mà bố-thí.
Này ông Tu-Bồ-Đề! bậc Bồ-tát phải nên bố-thí
như thế, không
trụ vào tướng.
Tại v́ sao? V́ nếu
bậc Bồ-tát, không
trụ vào tướng
mà bố-thí, thời phước-đức
nhiều không thể suy lường.
. . .
Này ông Tu-Bồ-Đề! Bồ-tát không trụ vào tướng mà bố-thí,
thời phước-đức
cũng lại như thế, không thể suy-lường được.
Ông Tu-Bồ-Đề, Bồ-tát
phải nên đúng như lời Ta đă dạy mà an trụ tâm. "
Nhận xét :
Trong đoạn kinh trên, "Không
trụ vào đâu cả ! " là
phương thức để an trụ tâm.
Cần lưu ư rằng đây là pháp
dành cho bậc Bồ Tát phát
tâm Vô-thượng
Chánh-đẳng Chánh-giác !
3) Lần thứ nh́ nói "Không trụ vào đâu cả "
Đă bàn ở phần I)
4) Lần thứ ba nói "Không trụ vào đâu cả "
a) Đoạn
văn Kinh Kim Cang, bản phiên âm chữ Hán :
"Thị
cố, Tu-Bồ-Đề!
Bồ Tát, ưng ly nhất
thiết tướng , phát A-nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Tâm :
Bất
ưng trụ sắc sanh tâm
Bất
ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp,
sanh tâm
Ưng sanh vô sở trụ tâm. "
b) Dịch :
"Này,
ông Tu-Bồ-Đề!
V́ thế bậc Bồ Tát, nên ĺa
tất cả các tướng
, mà phát tâm Vô-thượng
Chánh-đẳng Chánh-giác
:
Không nên trụ
vào sắc mà sanh tâm.
Không nên trụ
vào thanh,
hương , vị , xúc, pháp mà sanh tâm.
Nên sanh
tâm ‘Không trụ vào đâu cả’. "
c) Nhận xét :
_Không nên trụ vào
sắc mà sanh tâm.
sanh tâm ǵ ? _ sanh tâm
Vô-thượng Chánh-đẳng
Chánh-giác !
_Không nên trụ vào
thanh, hương , vị ,
xúc, pháp mà sanh
tâm.
sanh tâm ǵ ? _ sanh tâm
Vô-thượng Chánh-đẳng
Chánh-giác !
Tức là, Phật nói :
"Bậc
Bồ Tát phải phát tâm
Vô-thượng Chánh-đẳng
Chánh-giác như vầy :
Không nên trụ
vào sắc mà sanh tâm
Vô-thượng Chánh-đẳng
Chánh-giác !
Không nên trụ
vào thanh,
hương , vị , xúc, pháp mà sanh tâm
Vô-thượng Chánh-đẳng
Chánh-giác !
Nên sanh
tâm ‘Không trụ vào đâu cả’. "
Tức là, Phật nói :
_tâm "Không trụ vào đâu cả" là tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác !
Mà,
Tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác dĩ nhiên là tâm Phật, là Chân Tâm, là
Phật Tánh.
Tức là ,
_Tâm " không
trụ vào đâu cả" là Phật Tánh !
Điều này giải thích tại
sao :
_Không trụ vào đâu cả th́ Kiến
Tánh !
Tâm " Không trụ vào đâu cả" là Phật Tánh ! Điều này mới lạ
trong Kinh Kim Cang. Nhưng đây không phải là lần
độc nhất Phật nói đến điều này.
Chân lư này cũng được nói đến trong Kinh
Đại Bát Niết Bàn . . .
III) Định đề
Phật Tánh 10 : Tâm không trụ
Định đề Vô Trụ
(Định đề Phật Tánh 10) :
1) Tâm
không trụ là Phật Tánh
2)
Phật Tánh không có chỗ trụ .
Chân lư
này được nói đến trong Kinh Đại Bát
Niết Bàn
Chân lư này cũng được nói
đến trong kinh Đại Bảo
Tích .
Trong kinh Đại Bảo Tích Phật cũng dạy các vị Bồ
Tát :
_Không trụ
_Không trụ vào đâu cả !
IV) Tâm không trụ và "Không
trụ vào đâu cả ! "
Tâm không trụ là Phật Tánh và
"Không trụ vào đâu cả ! " là chuyển ngữ
để Kiến Tánh.
Một khi Tâm không trụ là Phật
Tánh ,
th́ nếu tâm ta làm được
chuyện "Không trụ vào đâu cả !
" th́ ta Kiến Tánh tức th́ !
Đó là chuyện dĩ nhiên vậy !
Xin nhắc lại : "Không trụ" không phải là
chuyển ngữ, không đủ để ta Kiến Tánh.
Phải "Không trụ vào đâu cả !
" th́ ta mới Kiến Tánh tức th́ !
V) Lời bạt : Bạt
Tụy pháp môn từ Đức Thế Tôn và . . .
Bài viết này dẫn chứng lời
Phật, để chỉ rằng Phật nói :
"Không trụ vào đâu cả ! " th́ Kiến
Tánh !
Bài viết thuần chỉ nói về
những lời từ kim khẩu của Đức
Thế Tôn , không có biên thêm
kiến giải của các vị Tổ, thiền sư
Thiền Tông. Tôi cố t́nh viết bài luận này như
vậy.
Có kiến giải của tôi trong bài
này, nhưng thu hẹp vào mục đích : chứng tỏ
rằng Phật đă dạy :
"Không trụ vào đâu cả !
" th́ Kiến
Tánh !
Trong Kinh Kim Cang, Phật nói "Không
trụ vào đâu cả ! " ba lần :
_Lần thứ nhất : "Không trụ vào đâu cả !
" là pháp an trụ tâm.
_Lần thứ nh́ : "Không
trụ vào đâu cả ! " th́ Kiến
Tánh !
_Lần thứ ba : Tâm
"Không trụ vào đâu cả" là tâm Phật.
Như vậy, bài viết này đă
đi quá tựa đề, đưa thêm ra đẳng
thức :
Tâm
"Không trụ vào đâu cả" là tâm Phật
Và tôi nói thêm : đẳng thức này có trong
Kinh Đại Bát Niết Bàn và kinh Đại
Bảo Tích .
(mệnh đề
_"Không trụ vào đâu cả !" th́ Kiến
Tánh .
là tương đương với
mệnh đề
"Không trụ vào đâu cả !
" th́ Kiến Tánh tức th́ !
Bởi v́ : hễ Kiến Tánh th́
‘Kiến Tánh tức th́’.
Nếu có độc giả nào không
tin :
_hễ Kiến Tánh th́ ‘Kiến Tánh
tức th́’
th́ tôi đành nói thêm rằng :
Thiền Tông là như vậy , do đó mới là Thiền
Đốn Ngộ !
)
Bài viết này đă tŕnh làng. . .
Bài viết này đă tŕnh làng. Tôi hi
vọng rằng ít nhất các Phật Tử Đại
Thừa sẽ công nhận rằng có một pháp môn Kiến
Tánh, pháp môn này ("Không trụ vào đâu cả !
") ở trong Kinh Kim Cang . Người Đại
Thừa phải công nhận như vậy, v́ đó là
điều Phật nói.
Thiết nghĩ cũng nên nêu ra đây
một sự kiện quan trọng : pháp môn Kiến Tánh này được Thiền tông
thực hành và được thiên hạ biết
đến hoàn toàn là nhờ vào công lao của Ngũ Tổ
Hoằng Nhẫn.
Hơn 1000 năm sau khi Phật nói Kinh
Kim Cang, mới có người khám phá ra rằng Phật
dạy Kiến Tánh ("Không trụ vào đâu cả !
") trong Kinh Kim Cang . Người đó là Ngũ Tổ và
ngài đă truyền bá pháp này.
Đây là một khám phá vĩ
đại, một phương thức Thiền Tông
vừa mới lạ vừa công truyền ;
hơn nữa, lại là phương thức tự tu, tự
chứng, tự thành !
Đây là một sự kiện vĩ
đại, một bước ngoặc lớn cho Thiền
Tông nói riêng và Phật Pháp nói chung.
Uống nước nhớ nguồn,
xin viết ra đây lời tri ân Ngũ Tổ , vị
thiền sư vĩ đại.
*
*
* Lê Anh Chí *.
_____________
Kinh sách tham khảo
Kinh
Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh
Kim Cang, dịch giả Đoàn Trung C̣n
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Duy Lực
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh
Kim Cang và Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú
giải : Thích Huyền Vi
Kinh Đại Bảo Tích, dịch giả Thích Trí Tịnh
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
--------------------------------------------------------------
* Trang Chính * M ụ
c L ụ c * Đoản
Luận * Thơ *
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Bài
mới * Nối kết Trang Nhà Phật
Pháp Việt Nam *
------------------------------------------------------------------------------