Không
trụ vào đâu cả !
(
Kinh Kim Cang )
Lê Anh Chí
_________________________________
Dàn Bài :
Lời phi lộ : yếu chỉ
Thiền Tông
I ) Quán như huyễn :
chủ thể và đối tượng
đối tượng : như
huyễn
chủ thể : chẳng phải
như huyễn
II ) Quán chiếu Bát Nhă Tâm Kinh
1)
TÂM KINH 2)
Tạm dịch 3) Quán chiếu
4) Đối tượng : rốt ráo không
5) Chủ thể : rốt ráo không khổ
III ) Pháp nhĩ căn viên thông
1)
KINH Lăng Nghiêm 2) Quán
chiếu
3) Đối tượng : năng văn sở văn, năng giác sở
giác, . . . rốt ráo không
4) Chủ thể : nhĩ căn viên thông
IV ) Không trụ vào sắc, thanh ,
hương , vị , xúc, pháp
1)
KINH Kim Cang
2) Đối tượng :
sắc, thanh , hương , vị , xúc, pháp rốt ráo không trụ
3) Chủ thể : an trụ
V ) Không trụ vào đâu cả !
1)
KINH Kim Cang
2) Đối tượng : rốt ráo không đối
tượng
3)
Chủ thể : Kiến
Tánh !
______________________________
Thiền
Tâm trời biển tịnh thanh,
Dạt dào ả Quảng kẽ
mành rải thưa -
Thiền
Tâm nắng sớm đẩy đưa,
Bạt ngàn sóng vỗ dư
thừa đêm thanh -
Thiền
Tâm ngọc bích liên thành,
Ngút cao Bắc Đẩu rành
rành Đại Bi -
Thiền
Tâm nào có so b́,
Nhật th́ tự sáng, nguyệt
th́ tuyệt xinh
Thiền
Tâm tự chỗ thiền sinh,
Ưng Vô Sở
Trụ, hiển minh Tánh hằng !
(
Thiền Tâm , Lê Anh
Chí)
Lời phi lộ : yếu chỉ
Thiền Tông
Bài viết này nói về yếu chỉ
Thiền Tông. Yếu chỉ Thiền Tông là ‘Không trụ vào
đâu cả !’. Mệnh đề :
_ Không trụ vào đâu cả !
có thể đưa đến sự
Kiến Tánh.
‘Không trụ vào đâu cả !’
xuất phát từ Kinh Kim Cang. Vị tổ sư của
pháp môn Kim Cang công truyền là Ngũ Tổ ; thế
nhưng ngài không giải thích tại sao Kinh Kim Cang lại có
thể đưa đến sự Kiến Tánh
.Người được thừa hưởng pháp môn cao
siêu này là Lục Tổ , cũng chẳng giải thích v́
sao :
_Không trụ vào đâu cả !
đưa đến sự Kiến
Tánh !
(trong Kinh Pháp Bảo Đàn, không
thấy điều này)
Bài viết này xác định v́ sao:
_ Không trụ vào đâu cả !
là một câu chuyển ngữ công
truyền ( do đó, có thể đưa đến sự
Kiến Tánh ).
Tôi dùng cách tỉ lượng phân
biệt, so sánh vài pháp môn : đi từ ‘Quán như
huyễn’, qua Bát
Nhă Tâm Kinh, đến ‘Pháp nhĩ căn viên thông’ , và
cuối cùng ‘Không trụ vào đâu cả !’.
Pháp ‘Không trụ vào đâu cả !’ là cao siêu
nhất !
Ngũ Tổ, Lục Tổ không
giải thích (đúng hơn là : đệ tử của
nhị vị Tổ Sư không có ghi lại lời giải
thích) ; nhưng các nhà chú giải xưa nay đều
đă nói rất nhiều. Xin thưa trước
rằng : lời giải thích của họ không
giống với bài viết này. Nói chung chung : họ
giải thích về lư, nói về Tâm Vô Trụ ; c̣n tôi th́
chú trọng đến kỹ thuật Kiến Tánh , chú
trọng đến cái mệnh đề giản
dị , câu chuyển ngữ giản dị :
_Không trụ vào đâu cả !
I ) Quán như huyễn :
chủ thể và đối tượng
Quán rằng các pháp là như huyễn.
Đây là pháp quán thông thường trong
Phật Pháp, cả Nhị Thừa và Đại thừa
đều có pháp này. Kinh Lăng Nghiêm có pháp này. Kinh Kim Cang
cũng có pháp này :
đó là câu kệ lục như :
_ Quán rằng các pháp là
như
mộng
như
huyễn
như
bọt
như
bóng
như
sương
như
điện
Sở quán, tức đối
tượng của pháp quán, là các pháp ; chủ thể là tâm ta
Khi ta thành công trong pháp này, th́ ta thấy các pháp là huyễn. Nhưng
tâm ta chẳng phải là huyễn ; ngược lại, tâm ta
rắn chắc hơn, thực hơn, có thể chắc
như kim cang ( v́ thế, Kinh Kim Cang
có pháp này ).
Trong thiền quán thiền hành,
điều cần phân biệt là chủ thể và
đối tượng.
II ) Quán chiếu Bát Nhă Tâm Kinh
1)
TÂM KINH
Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát Nhă Ba la mật đa
thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ
nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi tử! Sắc bất dị không, không bất
dị sắc; sắc tức thị không, không tức
thị sắc; thọ, tưởng, hành thức diệc
phục như thị.
Xá Lợi tử! Thị chư pháp không tướng,
bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất
tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không
trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhăn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư; vô sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp; vô nhăn giới năi chí vô ư thức giới; vô
vô minh diệc, vô vô minh tận, năi chí vô lăo tử, diệc
vô lăo tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo;
vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát
Đỏa y Bát Nhă Ba la mật đa cố, tâm vô quái
ngại, vô quái ngại cố; vô hữu khủng bố,
viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu
cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhă Ba la
mật đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam
miệu Tam Bồ đề.
Cố tri Bát Nhă Ba la mật đa, thị đại
thần chú, thị đại minh chú, thị vô
thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú,
năng trừ nhất thiết khổ, chơn thật
bất hư.
Cố thuyết Bát Nhă Ba la mật đa chú, tức
thuyết chú viết:
Yết đế, yết đế, ba la yết
đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề
tát bà ha.
2) Tạm dịch
Quan tự tại đại bồ tát hành thâm Bát
nhă ba la mật đa, soi thấy năm uẩn đều
không, vượt mọi khổ ách. Này ông Xá Lợi
Phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc
; sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ
tưởng hành thức cũng đều như vậy.
Ông Xá Lợi Phất, các pháp thật không tướng, không
sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không
bớt. Thế nên không-trung không có sắc thọ
tưởng hành thức, không nhăn nhĩ tỹ thiệt thân
ư, không sắc thanh hương vị xúc pháp, không nhăn
giới cho đến không ư thức giới, không vô minh và
sự tận diệt tận của vô minh, cho đến
không lăo tử và sự diệt tận của lăo tử,
không khổ tập diệt đạo, không trí, không đắc,
v́ không sở đắc.
Bồ tát v́ y theo Bát nhă ba la mật đa nên tâm
không bị chướng ngại, v́ không bị
chướng ngại nên không khiếp sợ, ĺa xa mộng
tưởng điên đảo, đạt được
niết bàn.
Chư Phật ba đời y theo Bát nhă ba la mật đa nên
được vô thượng bồ đề. Do đó mà
biết Bát nhă ba la mật đa là bài chú rất thần
diệu : bài chú rất sáng chói, bài chú vô thượng
, vô đẳng đẳng, trừ được
hết thảy khổ năo ; chắc
thật, không hư ngụy.
Nên nói chú Bát nhă ba la mật đa : Yết
đế, yết đế, ba la yết đế, ba la
tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha.
3) Quán chiếu
Quán
rằng năm uẩn là không
Quán
rằng sắc tức là không, không tức là
sắc ; thọ tưởng hành thức cũng
đều như vậy.
Quán
rằng các pháp không sinh không diệt, không dơ
không sạch, không thêm không bớt.
Quán
rằng không-trung không có sắc thọ
tưởng hành thức, không nhăn nhĩ tỹ thiệt thân
ư, không sắc thanh hương vị xúc pháp, không nhăn
giới cho đến không ư thức giới.
Quán
rằng không có vô minh và sự tận diệt
tận của vô minh
Quán
rằng không có lăo tử và sự diệt tận
của lăo tử,
Quán
rằng không có khổ tập diệt đạo,
không trí, không đắc, không sở
đắc.
4) Đối tượng : các pháp rốt ráo không
Rất nhiều người tu Tâm Kinh dừng
lại ở Ngũ Uẩn Giai Không (5UGK) ,
cho là như vậy là xong, cho 5UGK là đại ư của Tâm
Kinh. Không phải thế ! cần quán hết Tâm Kinh, quán cho
được rốt ráo không.
5) Chủ thể : rốt ráo
không khổ.
Tŕnh độ chứng đắc cao thâm
hơn tŕnh độ 5UGK nhiều ,
mặc dù đă quán ‘không sở
đắc’. Nhắc lại :
cần phân biệt chủ thể và đối
tượng.
III ) Pháp nhĩ căn viên thông
1) KINH Lăng
Nghiêm :
Bấy giờ, ngài Quán-thế-âm Bồ-tát từ chỗ ngồi đứng
dậy, đỉnh-lễ chân Phật mà bạch Phật
rằng: " Bạch Thế-tôn, tôi nhớ vô-số
hằng-sa kiếp về trước, có đức
Phật ra đời, hiệu là Quán-thế-âm; từ
đức Phật kia, tôi phát-tâm Bồ-đề. Đức
Phật kia dạy tôi, từ văn ,
tư, tu vào Tam-ma-đề.
Ban đầu, ở trong tính-nghe, vào
được ḍng viên-thông, không c̣n tướng
sở-văn nữa. Trần-tướng đă
vẳng-lặng, hai tướng động, tĩnh rơ thật
không sinh. Như vậy thêm lần, các tướng
năng-văn, sở-văn đều hết. Không
dừng lại nơi chỗ dứt hết năng-văn,
sở-văn mà tiến lên nữa, th́ năng-giác,
sở-giác, đều không. Không-giác tột bậc viên-măn,
các tướng năng-không, sở-không đều diệt.
Sinh-diệt đă diệt, th́ bản-tính tịch-diệt
hiện-tiền. Bỗng nhiên, vượt ngoài thế-gian
và xuất thế-gian, sáng-suốt cùng khắp mười
phương, được hai cái thù-thắng: Một là,
trên hợp với bản-giác-diệu-tâm thập
phương chư Phật, cùng với chư Phật
Như-lai đồng một từ-lực; hai là,
dưới hợp với tất-cả chúng-sinh
lục-đạo mười phương, cùng với các
chúng-sinh đồng một bi-ngưỡng.
2) Quán chiếu
Không c̣n phân biệt
động tĩnh
Không c̣n năng văn sở văn
Không c̣n năng giác sở giác
Không c̣n năng-không, sở-không
Không c̣n sinh-diệt
Không c̣n Sinh-diệt, th́ tịch-diệt
hiện-tiền
3) Đối tượng : năng văn sở văn, năng giác
sở giác, . . . rốt ráo không
Ở đây
, ngoài đối tượng âm thanh, c̣n có đối tượng liên quan tới chủ thể : năng giác sở giác, năng không, sở
không . . .
4) Chủ thể : nhĩ căn viên thông
Đối tượng : năng văn sở văn, năng giác
sở giác, . . . rốt ráo
không. Vậy mà khi thành công, th́ Chủ thể lại đắc nhĩ căn viên thông : "hợp với bản-giác-diệu-tâm thập
phương chư Phật, cùng với chư Phật
Như-lai đồng một từ-lực . . . "
IV ) Không trụ vào sắc, thanh ,
hương , vị , xúc, pháp
1)
KINH Kim Cang :
{{ Không
nên trụ vào sắc mà sanh tâm.
Không nên trụ vào thanh ,
hương , vị , xúc, pháp mà sanh tâm.
}}
Do đó, ta có pháp tu :
_Không trụ vào sắc, thanh ,
hương , vị , xúc, pháp
2) Đối tượng : sắc, thanh , hương , vị ,
xúc, pháp rốt ráo không trụ
3) Chủ thể : an trụ
V ) Không trụ vào đâu cả !
1)
KINH Kim Cang (tiếp theo phần trên) :
Không trụ vào đâu
cả . . .
2) Đối tượng : rốt ráo không đối tượng
Không
trụ vào đâu cả !
tức
là,
Không
trụ vào chỗ nào cả
tức
là,
rốt ráo không
đối tượng !
3) Chủ thể : Kiến Tánh !
Khi tâm ta làm được
chuyện :
_ Không
trụ vào đâu cả !
th́ tâm ta sẽ :
_Nhảy một cái vào thẳng
đất Như Lai !
tức là :
ta sẽ Kiến Tánh
tức là :
_chứng ngộ Phật Tánh ;
tức là : chứng ngộ Thường , Lạc , Ngă,
Tịnh. Tức là đắc đạo, đối
với Thiền Tông.
Nếu ta hành ‘Không trụ’ như IV),
th́ chẳng thể Kiến Tánh v́ :
_có đến 6 giai đoạn
_c̣n đối tượng để
‘Không trụ’ ; đó là c̣n Sắc để Không
Trụ, c̣n Thanh để Không Trụ . . . c̣n Pháp để
Không Trụ !
do đó, không có đà để
_Nhảy một cái vào thẳng
đất Như Lai !
C̣n
_ Không
trụ vào đâu cả !
th́ rốt ráo không có chỗ trụ,
rốt ráo không có đối tượng. Do đó, ta
chuyển tâm một cái rầm, làm một cái rột :
tâm ta phiêu phiêu vượt rào Vô Thủy, nhảy một cái
vào thẳng đất Như Lai . . .
*
* Lê Anh Chí *.
________________
Kinh sách tham khảo
Kinh :
Kinh
Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh
Đại
Thừa Kim Cang Kinh Luận
Cuộc
đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch
giả Thích Trung Quán
Kinh
Kim Cang, dịch giả Đoàn Trung C̣n
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Duy Lực
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Thiện Hoa
Kinh
Lăng Nghiêm, dịch giả Trí
Độ và Tuệ Quang
Kinh
THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG, Việt dịch : NH_N TẾ
Kinh
Trường A Hàm, dịch
giả Thích
Thiện Siêu
Kinh Vô Ngă Tướng, dịch
giả Phạm Kim Khánh
Ngữ Lục (đến đời
Lục Tổ):
Sáu
cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ,
dịch giả Trúc Thiên
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy
Lực
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh
Trực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác,
dịch giả Trúc Thiên
Ngữ Lục (sau đời Lục
Tổ):
Bá
Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy
Lực
Truyền
Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy Lực
Cội
nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của
thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn
tâm trực thuyết, Phổ Chiếu
Lâm
Tế Ngữ Lục
Thiền
Đốn Ngộ, nhiều tác giả :
Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành Kim, Oánh
Sơn, Hư Vân; dịch
giả Thích Thanh Từ
Tọa
Thiền Luận, Đại Giác, dịch giả Như
Hạnh
Tu tâm
quyết, Phổ Chiếu
Sách :
Tứ Diệu
Đế, Thích Thiện Hoa
Thiền
Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ
Tổ
Thiền Tông, Thích Thanh Từ
Thiền Luận, Tập Thượng
. Suzuki, dịch giả Trúc Thiên
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
--------------------------------------------------------------
* Trang Chính
* M ụ c L ụ c * Đoản Luận
* Thơ *
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư
* Bài mới
* Nối kết Trang Nhà Phật Pháp
Việt Nam *
------------------------------------------------------------------------------