Chứng minh rằng Niết Bàn của Phật
khác với Niết Bàn của A La Hán (dùng Kinh điển
Nhị Thừa)
Lê Anh Chí
__________________________________________
Dàn Bài :
Dẫn nhập : Người
Nhị Thừa không công nhận Phật Tánh
I) Chứng minh (dùng Kinh điển
Nhị Thừa)
II) Phụ lục 1: Kinh Vô Ngă Tướng có hàm ư rằng
. . .
III) Phụ lục 2: Phật đắc đạo từ Tứ Thiền
IV) Phụ lục 3: Phật ấn chứng rằng
Đại Ca Diếp "tương đương"
với Phật
V) Phụ lục 4: Kinh Đại
Thừa giải thích
__________________________________________
ALH = A La Hán
Chứng minh rằng Niết Bàn
của Phật khác với Niết Bàn của A La Hán (dùng
Kinh điển Nhị Thừa). Chứng minh này tôi đă
nói đến trong bài Kiến Tánh Thành Phật, nhưng khá
vắn tắt.
( Xem bài
)
Ở đây, tŕnh bày đầy
đủ hơn.
Ngoài ra, bài viết này có thêm ba dẫn
chứng từ trong Kinh Nhị Thừa ;
những điều dẫn chứng này có hàm ư rằng
Niết Bàn của Phật khác với Niết Bàn của A
La Hán
Dẫn nhập : Người
Nhị Thừa không công nhận Phật Tánh
Trong Phật Giáo Nhị Thừa, không
hề có chữ Phật Tánh. Người Nhị Thừa
không công nhận Phật Tánh. Và dĩ nhiên trong Phật Giáo
Nhị Thừa không có chuyện : Phật đă Kiến Tánh
Thành Phật. Họ bảo rằng : Phật là A La Hán.
Đại Thừa bảo rằng
Phật quả là A La Hán, nhưng Phật hơn A La Hán it
nhất một bực : Phật đă Kiến Tánh Thành
Phật
Trong Phật Giáo Nhị Thừa,
Niết Bàn của Phậtlà Niết Bàn của A La Hán.
Trong Phật Giáo Đại Thừa,
Niết Bàn của Phật, khác với Niết Bàn của A
La Hán.
Sự khác biệt này -hầu hết
Phật Tử đều biết- là do trong mười
mấy năm đầu chuyển pháp luân, Phật
quyền phương tiện chỉ nói Nhị Thừa.
Đến khi Phật thuyết Đại Thừa,
nhiều vị A La Hán không bằng ḷng, có lúc biết
Phật sắp thuyết Đại Thừa, họ lễ
Phật rồi bỏ đi ! . . .
Vậy mà, ta có thể t́m thấy ,
trong kinh điển Nhị Thừa, một số
điều chứng tỏ rằng Niết Bàn của
Phật, khác với Niết Bàn của A La Hán . . .
I) Chứng minh
(dùng Kinh điển Nhị Thừa)
===== Kinh Đại
Bát-Niết-Bàn (Kinh Trường
Bộ , (Nhị Thừa)):
8. Rồi
Thế Tôn nhập định Sơ thiền. Xuất Sơ thiền, Ngài nhập Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định Không vô biên xứ.
Xuất Không vô biên xứ,
Ngài nhập định Thức vô biên xứ.
Xuất Thức vô biên xứ,
Ngài nhập định Vô sở
hữu xứ. Xuất Vô Sở
hữu xứ, Ngài nhập định Phi tưởng
phi phi tưởng xứ. Xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ngài nhập Diệt thọ tưởng định.
Khi ấy
tôn giả Ananda nói với tôn
giả Anuruddha: - Thưa Tôn
giả, Thế Tôn đă diệt
độ. - Này Hiền giả Ananda, Thế Tôn chưa diệt độ. Ngài mới nhập Diệt thọ tưởng định.
9. Rồi
xuất Diệt thọ tưởng định, Ngài nhập Phi tưởng phi
phi tưởng xứ định. Xuất Phi tưởng phi
phi tưởng xứ, Ngài nhập Vô sở
hữu xứ định. Xuất Vô sở hữu
xứ, Ngài nhập Thức vô biên xứ
định. Xuất
thức Vô biên xứ, Ngài nhập Hư không vô
biên xứ định. Xuất Hư không vô
biên xứ, Ngài nhập định Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập định Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập định Sơ thiền.
Xuất
Sơ thiền, Ngài nhập định Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập định Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập định Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài lập tức diệt độ. =====
Nhận xét :
1) Sư Tử Phấn Tấn Tam
Muội
Xuất nhập các từng thiền như
sau :
_xuất nhập Tứ Thiền Bát
Định, theo chiều thuận : Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Không vô biên
xứ,Thức vô biên xứ,Vô sở hữu
xứ, Phi tưởng
phi phi tưởng xứ.
_rồi
nhập Diệt thọ tưởng định
_rồi xuất nhập Tứ
Thiền Bát Định, theo chiều nghịch : Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Vô sở
hữu xứ định, Thức vô biên xứ
định, Hư không vô biên
xứ định, Tứ thiền, Tam thiền, Nhị thiền, Sơ thiền.
là Sư Tử Phấn Tấn Tam
Muội
2) Phật nhập Niết Bàn từ
Tứ Thiền :
_Phật nhập Sư Tử Phấn
Tấn Tam Muội một ṿng
_rồi
Phật nhập Sơ thiền, Nhị
thiền. Tam thiền, Tứ thiền
_từ Tứ Thiền
nhập Niết Bàn.
3) Kinh Trường A Hàm cũng diễn tả như vậy
Phật nhập Niết Bàn từ
Tứ Thiền !
Sự kiện này chứng tỏ
rằng :
_Đại Niết Bàn, Niết Bàn
của Phật, khác với Niết Bàn của A La Hán
Tại sao vậy ?
_Bởi v́ nếu Niết Bàn của
Phật là Niết Bàn của A La Hán, th́ Phật đă
nhập Niết Bàn ở Diệt thọ tưởng định.
(Diệt
thọ tưởng
định là Niết Bàn của A
La Hán).
II) Phụ lục 1: Kinh Vô Ngă Tướng có hàm ư rằng
. . .
Vô Ngă chẳng có nghĩa là "Không có Ngă"
, mà là "chẳng phải là Ta" .
Xem bài
Từ
Vô Ngă đến Chân Ngă _con
đường hợp lư và hiển nhiên !
Kinh Vô Ngă
Tướng (của
Nhị Thừa) :
{{
Vậy
như Tỳ Khưu nghĩ thế nào, thân
này thường c̣n hay vô
thường?
- Bạch Thế tôn, là vô thường .
- Cái ǵ vô thường là khổ năo hay
hạnh phúc?
- Bạch Thế tôn là khổ năọ
- Vậy, có hợp lư chăng
nếu nghĩ đến cái ǵ
vô thường, khổ năo và
tạm bợ với ư tưởng: Cái này của
tôi, đây là tôi, đây là tự ngă của
tôỉ
- Bạch
Đức Thế Tôn, chắc chắn là không hợp lư.
- Cùng một thể ấy, nầy hỡi các Tỳ Khưu,
thọ, tưởng,
hành, thức, đều là vô thường và khổ năọ Vậy, có hợp
lư chăng nếu nghĩ đến cái ǵ
vô thường, khổ năo và
tạm bợ với ư tưởng: Cái này của
tôi, đây là tôi, đây là tự ngă của
tôi?
- Bạch đức
Thế tôn, chắc chắn là không hợp lư.
- Như vậy, này hỡi các
Tỳ Khưu: Tất cả các sắc, dầu ở quá khứ, hiện tại hay tương lai, ở bên trong
hay ở ngoại cảnh, thô kệch hay vi tế,
thấp hèn hay cao thượng, xa hay
gần, phải
được nhận
thức theo thực tướng của nó -
- Cái này không phải của tôi, đây
không phải là tôi, cái này
không phải là tự ngă của
tôị Tất cả các thọ,
tưởng, hành, thức, dầu ở quá khứ,
hiện tại hay tương lai, ở bên trong
hay ở ngoại cảnh, thô kệch hay vi tế,
thấp hèn hay cao thượng, xa hay
gần, phải
được nhận
thức theo thực tướng của nó . . .
}}
Trong đoạn kinh trên, Phật đă
lập đi lập lại lời giải thích Vô Ngă :
{{ - Cái này không phải
của tôi, đây không phải là tôi, cái này không
phải là tự ngă của tôị }}
Rơ ràng rằng Vô Ngă là "chẳng
phải là Ta".
Không những thế,
{{nầy
hỡi các Tỳ Khưu, thọ, tưởng, hành, thức, đều là vô thường và khổ năọ Vậy, có hợp
lư chăng nếu nghĩ đến cái ǵ
vô thường, khổ năo và
tạm bợ với ư tưởng: Cái này của
tôi, đây là tôi, đây là tự ngă của
tôi?
- Bạch đức
Thế tôn, chắc chắn là không hợp lư}}
Lư luận của
Phật là : nếu
là Ngă th́ phải Thường và không khổ
năọ.
Vậy
th́, ngay trong Kinh Vô
Ngă Tướng của Nhị Thừa Phật đă nói đến hai đặc tính của Ngă : Thường và Lạc.
Thế
nhưng
, thành ALH, th́ không cần đắc hai đặc tính Ngă
và Lạc.
Đó là v́
Niết
Bàn của Phật, khác với Niết Bàn của A La Hán
III) Phụ lục 2: Phật đắc đạo từ Tứ Thiền
Cả Kinh điển Nhị Thừa
và Đại Thừa đều nói rằng Phật đắc đạo từ Tứ Thiền
Điều này hàm ư rằng
Niết Bàn của
Phật, khác với Niết Bàn của A La Hán
Nếu Niết Bàn của Phật là
Niết Bàn của A La Hán, th́ khi đó, ở Ni Liên
Thiền, Phật đă nhập
Diệt thọ
tưởng định
7 ngày 7 đêm thành A La Hán rồi !
IV) Phụ lục 3: Phật ấn chứng rằng
Đại Ca Diếp "tương đương"
với Phật
Nếu có ai có "quyền"
xưng là Phật, th́ người đó là Đại Ca
Diếp.
Phật nhiều lần ấn
chứng rằng Đại Ca Diếp "tương
đương" với Phật, rằng Như Lai
chứng pháp môn ǵ th́ Đại Ca Diếp cũng chứng
pháp môn đó. Sự ấn chứng này trong Kinh diển
Nhị Thừa cũng có ghi rơ.
Phật ấn chứng rằng
Đại Ca Diếp "tương đương"
với Phật, rằng Như Lai chứng pháp môn ǵ th́
Đại Ca Diếp cũng chứng pháp môn đó.
Vậy th́,
Như
Lai chứng ngộ Niết Bàn của Phật th́
Đại Ca Diếp cũng chứng Niết Bàn của
Phật
Đó là lư do tại sao trong tất
cả các A La Hán đệ tử của Phật, chỉ có
Đại Ca Diếp là "tương
đương" với Phật
Đó là v́
Niết
Bàn của Phật, khác với Niết Bàn của A La Hán
V) Phụ lục 4: Kinh
Đại Thừa giải thích
Đến
khi Phật giảng
Đại thừa,
Phật nói đến Phật Tánh. Phật Tánh là Chân Ngă,
có bốn đặc tính: Thường , Lạc, Ngă, Tịnh. (Kinh
Đại Bát Niết Bàn)
Kinh Đại Bát Niết Bàn :
Phật Tánh
có bốn đặc tính: Thường, Lạc, Ngă, Tịnh. Phật Tánh là Phật , là
Đại Niết Bàn, là Niết Bàn của Phật.
Niết Bàn của ALH là Thường, Tịnh
Niết Bàn của Phật, khác với
Niết Bàn của A La Hán. Niết Bàn của A La Hán
thiếu hai đặc tính : Lạc, Ngă.
*
*
* Lê Anh Chí *.
_____________
Kinh sách tham khảo
Kinh :
Kinh
Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh Đại Bát
Niết Bàn, Kinh Trường Bộ (Nhị
Thừa),dịch giả Thích Minh Châu
Đại
Thừa Kim Cang Kinh Luận
Cuộc
đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch
giả Thích Trung Quán
Kinh
Kim Cang, dịch giả Đoàn Trung C̣n
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh
Kim Cang và Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú
giải : Thích Huyền Vi
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Duy Lực
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Thiện Hoa
Kinh
Lăng Nghiêm, dịch giả Trí
Độ và Tuệ Quang
Kinh
THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG, dịch giả Thích Nhẫn Tế
Kinh
Trường A Hàm, dịch
giả Thích
Thiện Siêu
Kinh Trường Bộ
(Nhị Thừa),dịch giả Thích Minh Châu
Kinh Vô Ngă Tướng,
dịch
giả Phạm Kim
Khánh
Pháp
Trích Lục, Huỳnh văn Niệm trích lục.
Ngữ Lục (đến đời
Lục Tổ):
Sáu
cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ,
dịch giả Trúc Thiên
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy
Lực
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh
Trực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác, dịch giả Trúc Thiên
Sách :
Nam Hoa
Kinh, Trang Tử, dịch giả Ngô Tất
Tố
Nam Hoa Kinh, Trang Tử,
dịch giả Nguyễn Hiến Lê
Tứ Diệu Đế, Thích Thiện Hoa
Cuộc
đời Thánh Tăng Đại Ca Diếp, Nguyễn
Điều,
Cuộc
đời Tôn Giả Xá Lợi Phất, Nguyễn
Điều,
Cuộc
đời Tôn Giả Mục Kiền Liên, Nguyễn
Điều,
Mặc Tử, Nguyễn
Hiến Lê
*
*
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
-------------------------------------------------------
* Trang Chính
* M
ụ c L ụ c * Đoản
Luận * Thơ *
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Nối kết Trang Nhà Phật
Pháp Việt Nam * Nối kết Văn Học *
------------------------------------------------------------------------------
* Bài
Xưa
* Bài
mới Kiến Tánh * Bài
mới Trang LêAnhChí *
---------------------------------------------------------------