Giải (đáp) công án chẳng phải Thiền
Tông
Lê Anh Chí
__________________________________________
Dàn Bài :
I) Ba Phương Thức Thiền Tông
II) Pháp môn ‘‘Giải (đáp) công án’’
III) Giải (đáp) công án là tri
thức chẳng phải Kiến Tánh
IV) Khởi nghi t́nh chớ chẳng
phải là ‘‘t́m đáp án cho công án’’
V) Nghi t́nh chớ chẳng phải là
nghi vấn
VI) Khởi Nghi t́nh rồi . . .
VII) Nguyên Lư Phá Nhập
VIII) Nghi t́nh chớ chẳng phải là
nghi ngờ Chánh pháp
IX) Sao gọi là chánh nghi ?
__________________________________________
I) Ba Phương Thức Thiền Tông
Việc tu hành của pháp môn Kiến
Tánh gồm 3 Phương Thức :
1)
truyền tâm ấn tâm
2)
tự tu bằng Kinh Kim Cang
3) khán
công án, thoại đầu
Chỉ vỏn vẹn có 3, không hai,
không bốn, không năm.
Xem bài
Nguyên
Lư Phương Thức Thiền Tông
Từ 800 năm nay, phần đông
hành giả Thiền Tông đều tu theo pháp
công án, thoại đầu.
Pháp khán công án, thoại đầu là:
khởi nghi t́nh, kết nghi t́nh thành một khối, duy tŕ
nghi t́nh, đến khi nghi t́nh bỗng tan vỡ th́ Kiến
Tánh.
Xin lưu ư : Công án khác thoại đầu
Công án là một câu chuyện.
Thoại đầu là một câu nói.
Công án và thoại đầu
đều dùng để khởi nghi t́nh
Bài này sẽ dùng chữ Công án thay cho
cả hai chữ Công án và thoại đầu.
II) Pháp môn ‘‘Giải (đáp) công án’’
Có một số nơi tu hành như sau :
thầy đưa ra một vấn đề, gọi là
công án, tṛ t́m cách giải công án
đó ; hết công án này
lại đến công án kia. Giải được
khoảng hơn 700 công án th́ được xem là bậc
thầy, là đắc đạo
Tu hành như vậy, trong bài này,
được gọi là theo Pháp môn ‘‘Giải (đáp) công
án’’
III) Giải (đáp) công án là tri
thức chẳng phải Kiến Tánh
Ba Phương Thức Thiền Tông
đều cùng một mục đích :
Kiến Tánh.
Kiến Tánh là chứng ngộ Phật
Tánh,
là
chứng ngộ Phật Tâm
là
chứng ngộ Đại Niết Bàn,
là
chứng ngộ Thường, Lạc, Ngă, Tịnh,
là
chứng ngộ Bản Thể của Tâm
Kiến Tánh là chứng ngộ, là
một sự thực chứng. Thực chứng
Đại Niết Bàn,
thực chứng Thường Lạc
Ngă Tịnh ,thực chứng Trạng Thái Kiến Tánh
Kiến Tánh là một sự chứng ngộ
, chẳng phải là Kiến Văn Giác Tri.
1) Biết rằng tất cả chúng
sinh đều có Phật Tánh, rằng Phật Tánh của ta
b́nh đẳng với chư Phật, đều là
Thường, Lạc, Ngă, Tịnh. Biết như vậy
chẳng phải là Kiến Tánh .
Hiểu, tin rằng tất cả chúng
sinh đều có Phật Tánh, rằng Phật Tánh của ta
b́nh đẳng với chư Phật, đều là
Thường, Lạc, Ngă, Tịnh. Hiểu, tin như
vậy chẳng phải là Kiến Tánh .
Nhận thức rằng tất cả
chúng sinh đều có Phật Tánh, rằng Phật Tánh
của ta b́nh đẳng với chư Phật, đều
là Thường, Lạc, Ngă, Tịnh. Nhận thức
như vậy chẳng phải là Kiến Tánh .
Kiến Tánh là một sự chứng ngộ
.
Nhận thức, hiểu, biết , tin
như trên là thuộc về Kiến Văn Giác Tri, là ḷng
tin, là lư luận ( mà lư luận rất gần với hí
luận), đều chẳng phải là Kiến Tánh ; mà
chỉ là điều kiện cần thiết để tu
theo Thiền Tông mà thôi !
2) Giải (đáp) công án là tri thức,
là thuộc về Kiến Văn Giác Tri chẳng phải
Kiến Tánh
Giải (đáp) được
một công án chỉ là dùng lư luận để giải
quyết một vấn đề (nhân tạo) là tri
thức , chẳng dính dáng ǵ đến sự thực
chứng Thường Lạc Ngă Tịnh, chẳng phải
là Kiến Tánh.
Giải (đáp) được 700công
án chỉ là dùng lư luận để giải quyết 700
vấn đề (nhân tạo) là tri thức , chẳng dính
dáng ǵ đến sự thực chứng Thường
Lạc Ngă Tịnh, chẳng phải là Kiến Tánh.
V́ mục đích Thiền Tông là
Kiến Tánh
Cho nên,
Giải
(đáp) công án là chẳng phải là Thiền Tông.
IV) Khởi nghi t́nh chớ chẳng
phải là ‘‘t́m đáp án cho công án’’
Pháp khán công án, thoại đầu là:
khởi nghi t́nh, kết nghi t́nh thành một khối, duy tŕ
nghi t́nh, đến khi nghi t́nh bỗng tan vỡ th́ Kiến
Tánh.
Việc phải làm là khởi nghi t́nh
chớ chẳng phải là t́m đáp án cho công án.
Cho nên,
Giải
(đáp) công án là chẳng phải là Thiền Tông.
V) Nghi t́nh chớ chẳng phải là
nghi vấn
Xin nhớ cho rằng đây là nghi t́nh ; nghi
t́nh chớ chẳng phải là nghi vấn !
Thoại đầu không là một câu
đố.
Công án không là một bài toán đố.
Tham công án, thoại đầu
chẳng phải là để t́m đáp án cho một
vấn đề.
Tham công án, thoại đầu
để khởi nghi t́nh. Rồi sau đó , . . .
Rồi sau đó , như thế nào th́
đă nói ở trên, và lập lại sau đây
VI) Khởi Nghi t́nh rồi . . .
Khởi Nghi t́nh rồi kết nghi t́nh
thành một khối.
Pháp khán công án, thoại đầu là:
khởi nghi t́nh, kết nghi t́nh thành một khối, duy tŕ
nghi t́nh, đến khi nghi t́nh bỗng tan vỡ th́ Kiến
Tánh.
Tại sao tham công án, thoại
đầu lại có thể Kiến Tánh ? -
nguyên tắc là "dĩ độc chế độc" :
Thiền sư Nguyệt Khê bảo rằng tu theo các pháp môn
khác giỏi lắm chỉ đến "vô thủy vô
minh", cần phải dùng "nhất niệm vô minh"
để phá "vô thủy vô minh". Khi vô thủy vô minh
bị phá th́ Kiến Tánh.
Pháp tham công án, thoại đầu dùng
nghi t́nh làm nhất niệm vô minh (để phá vô thủy vô
minh) ; bởi vậy, cần khởi nghi
t́nh, kết nghi t́nh thành một khối (ở giai
đọan này, nghi t́nh là nhất niệm vô minh) và gắng sức giữ nghi t́nh :
nghi
t́nh thành một khối là nhất niệm vô minh
v́ nghi
t́nh thành một khối và chỉ có một vô minh, nên vô minh
này cũng là vô thủy vô minh
khi
nghi t́nh bỗng tan vỡ th́ "nhất niệm vô minh"
bị phá và "vô thủy vô minh" cũng tan vỡ
khi vô
thủy vô minh bị phá th́ Kiến Tánh.
Tu theo Phương Thức này cũng
cần có thầy v́ : a) khởi nghi t́nh có
thể làm thần kinh căng thẳng b) "thiền bệnh" :
thiền sinh có thể có thiền bệnh ở vài giai
đoạn của pháp môn.
V́ cần khởi nghi t́nh, kết nghi
t́nh thành một khối (nhất niệm vô minh) , nên gọi
đó là làm ra "cái độc", dùng "cái
độc" này để phá "cái độc" vô
thủy vô minh, nên gọi là dĩ độc chế
độc
VII) Nguyên Lư Phá Nhập
Xem bài
Nguyên Lư Vượt Nhập và Phá Nhập
( Nguyên Lư Nguyên Lư Thiền Tông [3] )
1) Kiến Tánh = Nhảy Một Cái vào
thẳng đất Như Lai
Trong Chứng Đạo Ca ,Thiền
Sư Huyền Giác đă diễn tả sự Kiến tánh như
sau :
NHẤT SIÊU trực nhập Như Lai địa
mà Trúc Thiên dịch :
Một nhẩy vào liền đất Như Lai .
đây là bản dịch ‘chính thức’ được
nhiều người
công nhận.
Tôi dịch là :
NHẢY Một Cái vào thẳng
đất Như Lai
Dịch là Nhảy Một Cái th́
gợi h́nh, gợi ư hơn và nhất là Việt hơn.
Nhảy Một Cái c̣n nói
lên được sự hoát nhiên
của Ngộ.
Đây là cái nhảy siêu không
gian, vượt thời gian.
2) siêu không gian
Nhảy từ Vọng tâm sang Chân tâm,
từ thế giới Tam Độc sang thế giới Thường Lạc Ngă Tịnh,
từ vũ trụ Ái Dục sang vũ trụ Phật Tánh , từ vũ trụ chúng sinh sang vũ trụ chư Phật.
3) vượt
thời gian
Nhảy vượt ngược thời gian từ rào Vô
Thủy Vô Minh sang Đại Niết Bàn, từ nghiệp chướng của vô lượng kiếp sang thời điểm Vô Sinh
!
Để :
_NHẢY Một Cái vào
thẳng đất Như Lai
có hai cách :
_Vượt Nhập
: Vượt rào vô thủy vô
minh mà Nhập đất Như Lai
_Phá Nhập : Phá rào vô thủy
vô minh mà
Nhập đất Như Lai
4) Nguyên Lư Phá Nhập
là Phá rào vô thủy vô
minh mà Nhập đất Như Lai !
Điển h́nh của Nguyên Lư Phá
Nhập này là phương thức ‘tham công án
thoại đầu‘
: dùng nghi t́nh làm nhất
niệm vô minh để phá vô thủy
vô minh .
Khi nghi t́nh bỗng tan vỡ th́ "nhất niệm vô minh" bị phá và
"vô thủy vô minh" cũng
tan vỡ
Khi vô thủy vô minh
bị phá th́
_NHẢY Một Cái vào
thẳng đất Như Lai
tức Kiến Tánh.
Xem bài viết " Nguyên
Lư Phương Thức Thiền Tông"
VIII) Nghi t́nh chớ chẳng phải là
nghi ngờ Chánh pháp
Nghi t́nh chớ chẳng phải là nghi
ngờ Chánh pháp
Trên con đường đến Thánh
Đạo, ‘nghi ngờ Chánh pháp’ là một trong năm
chướng ngại.
Đối với Thiền-tông,
nhận thức, hiểu, biết , tin nhận Chân-tâm c̣n là
điều kiện cần thiết để tu theo
Thiền Tông :
Nghi
t́nh chớ chẳng phải là nghi ngờ Chân-tâm
Khởi Nghi t́nh nhưng không nghi
ngờ Chánh pháp , không nghi ngờ Chân-tâm
IX) Sao gọi là chánh nghi ?
Nghi t́nh là chánh nghi
Sao gọi là chánh nghi ? V́ :
_Nghi t́nh chớ chẳng phải là nghi
vấn
_Nghi t́nh chớ chẳng phải là nghi
ngờ Chánh pháp
_Nghi t́nh là phương tiện
để Kiến Tánh :Khởi Nghi t́nh rồi dùng Nghi t́nh mà
phá rào vô thủy vô
minh mà Nhập đất Như Lai ! ( Nguyên Lư Phá Nhập)
V́ Nghi t́nh là một giai đọan
để đạt được Kiến Tánh, nên Nghi
t́nh là chánh nghi
*
*
* Lê Anh Chí *.
_____________
Kinh sách tham khảo
Kinh :
Kinh
Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh
Đại
Thừa Kim Cang Kinh Luận
Cuộc
đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch
giả Thích Trung Quán
Kinh
Trường A Hàm, dịch
giả Thích
Thiện Siêu
Kinh
Kim Cang, dịch giả Đoàn Trung C̣n
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh
Kim Cang và Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú
giải : Thích Huyền Vi
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Duy Lực
Ngữ Lục (đến đời
Lục Tổ):
Sáu
cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ,
dịch giả Trúc Thiên
Luận
Tối Thượng Thừa , Ngũ Tổ, dịch
giả Thích Thanh Từ
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh
Trực
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy
Lực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác, dịch giả Trúc Thiên
Ngữ Lục (sau đời Lục
Tổ):
Bá
Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy
Lực
Truyền
Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy Lực
Cội
nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của
thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn
tâm trực thuyết, Phổ Chiếu
Lâm
Tế Ngữ Lục
Thiền
Đốn Ngộ, nhiều tác giả :
Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành Kim, Oánh
Sơn, Hư Vân; dịch
giả Thích Thanh Từ
Tọa
Thiền Luận, Đại Giác, dịch giả Như
Hạnh
Tu tâm
quyết, Phổ Chiếu
Sách :
Tứ Diệu
Đế, Thích Thiện Hoa
Thiền
Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ
Tổ
Thiền Tông, Thích Thanh Từ
Cao Tăng Dị
Truyện, Hạnh Huệ biên dịch
Thiền Luận,
Tập Thượng . Suzuki, dịch giả
Trúc Thiên
*
*
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
-------------------------------------------------------
* Trang Chính
* M
ụ c L ụ c * Đoản
Luận * Thơ *
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Nối kết Trang Nhà Phật
Pháp Việt Nam * Nối kết Văn Học *
------------------------------------------------------------------------------
Bài
mới Kiến Tánh * Bài mới Trang LêAnhChí *
--------------------------------------------------