Ảnh hưởng của Ngũ
Tổ Hoằng Nhẫn [2]
Lê Anh Chí
______________________________
Dàn Bài:
11) Hai học tṛ làm
quốc sư
12) Người Kiến Tánh th́ ra
trận cũng thấy Tánh
13) Cao trào thọ tŕ Kinh Kim
Cang
14) Chẳng lập văn tự
15) Tự tu, tự
chứng, tự thành
16) Nghe pháp Kiến Tánh
liền
17) Chẳng phải
thiền định
18) Phương thức
Thiền Tông
19) Trực Chỉ Chân Tâm
20) Lập Tông bởi
Tổ Đạt Ma, phát triển bởi Ngũ Tổ
21) Đặc thù của
Thiền Tông Đông Độ
22) Đức Hoàng Mai
______________________________
11) Hai học tṛ làm
quốc sư
Ngũ Tổ
có đến hai học tṛ làm quốc sư:
Huệ An và Thần Tú !
Điều này chứng tỏ sự
ngưỡng mộ của mọi người đối
với Ngũ Tổ ; và do đó đối với
Thiền Tông !
Hơn nữa, Huệ An c̣n là thiền
sư đầu tiên làm quốc sư ở Trung Hoa !
( Thần Tú không được kể
là thiền sư, v́ chưa Kiến Tánh )
Từ đó về sau,
Trung Hoa và nước ta mới có nhiều thiền-sư
làm quốc sư
12) Người Kiến Tánh th́ ra
trận cũng thấy Tánh
Ngũ Tổ xác
định nguyên tắc Thiền-tông : hễ Kiến Tánh th́ ở hoàn cảnh
nào cũng có thể Kiến Tánh. Do đó ngài nói :
Người Kiến Tánh th́ ra trận cũng thấy Tánh
13) Cao trào thọ tŕ Kinh Kim
Cang
Từ khi Ngũ Tổ
quảng bá Kim Cang Công Truyền , người
ta đua nhau thọ tŕ Kinh Kim Cang . Bởi thế, lúc
Ngũ Tổ c̣n tại thế, nơi vùng biên địa
Lưỡng Quảng có người đọc tụng Kinh
Kim Cang ; và cư sĩ Huệ Năng ngộ !
Trong văn học sử
Ta và Tàu, có nhiều người thọ tŕ Kinh Kim Cang. Vài ví
dụ :
_ái thiếp của Tô
Đông Pha là Triêu Vân
_thi hào Nguyễn Du
_nhà cách mạng Phan Bội
Châu
Bởi thế, ở
nước ta , thời Lê Mạc phân
tranh, nho sĩ nghèo Lương Hữu Khánh (sau là danh
thần thời Lê Trung Hưng), khi c̣n trẻ có làm bài
thơ , đề cập đến Kinh Kim Cang :
Một
pho kinh sử bộ Kim Cương
Đâu
đấy cùng thuyền khéo một đường . . .
Cho đến ngày nay, ở nước ta, có
nhiều người thọ tŕ Kinh Kim Cang ,
theo truyền thống
14) Chẳng lập văn tự
Ngũ Tổ chứng
tỏ bằng hành động việc ‘Chẳng
lập văn tự’ : truyền ngôi Tổ cho một
người mù chữ !
15) Tự tu, tự
chứng, tự thành
Phương thức Kim Cang Công Truyền
, ngoài cuộc cách mạng ‘Công Truyền’ c̣n là một
phương thức tự tu tự chứng.
Từ khởi thủy, tu theo Thiền Tông
cần có thầy. Sự chứng ngộ của
người tu tùy thuộc vào : a)thiền
lư của thầy b) sự thấu hiểu căn cơ
của học tṛ bởi người thầy c) sự áp dụng hai điều
trên để thầy cho ra câu chuyển ngữ
Kim Cang Công Truyền phá vỡ quan niệm
‘cần có thầy’ . Người tu
chỉ cần Kinh Kim Cang. Đại cánh mạng !
( Sau này,
phương thức ‘khán công án, thoại đầu’ cũng cần có thầy :
_áp dụng qui luật, qui tắc, thanh qui
của việc đả thiền thất
_người thầy ít nhất phải
biết hướng dẫn người tu trong từng giai
đoạn
_có thể có thiền bệnh : cần thầy để giải trừ)
Tóm lại, chỉ có Kim Cang Công Truyền là tự tu, tự chứng,
tự thành Phật Đạo !
16) Nghe pháp Kiến Tánh
liền
Ngũ Tổ xác
định nguyên tắc Đốn ngộ của
Thiền-tông : Nghe pháp Kiến Tánh
liền.
Hăy đọc lời
Ngũ Tổ :
{{Phàm người thấy tánh, khi nghe pháp rồi
th́ phải thấy liền.}}
{{ Ngũ Tổ nói (với Thần Tú) : Ông làm bài kệ
ấy, tỏ ra chưa thấy bổn tánh. Ông mới tới ngoài thềm cửa, chưa
vào trong nhà. Cứ như chỗ
thấy hiểu ấy mà t́m đạo Vô Thượng
Bồ Đề th́ rơ ràng không thể được. Theo đạo Vô Thượng Bồ
Đề, hễ khi nghe nói pháp rồi, liền phải
biết Bổn Tâm và thấy Bổn Tánh của ḿnh. Tâm của ḿnh chẳng sanh chẳng diệt,
trong cả thảy thời gian, niệm niệm ḿnh
thấy tánh. Đối với muôn pháp,
tâm ḿnh suốt thông, không ngưng trệ. Một pháp, ḿnh thấy hiểu chơn
tướng. Cả thảy các pháp, ḿnh
đều hiểu thấu chơn tướng. Đối với muôn cảnh, tâm ḿnh như
như. Tâm như như tức là tâm chơn
thật. Thấy như thế, tức là thấy
Vô Thượng Bồ Đề của ḿnh.}}
H́nh như trước Ngũ Tổ,
chưa có vị Tổ nào xác
định nguyên tắc Đốn ngộ của
Thiền-tông một cách rơ ràng và chắc nịch
như vậy.
17) Chẳng phải
thiền định
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn
<chỉ luận kiến tánh. Ngài chẳng luận pháp
thiền-định và pháp giải thoát> (Kinh Pháp Bảo
Đàn).
Chẳng luận thiền-định !
Ở đây, Ngũ Tổ xác
định rằng Thiền-tông chẳng phải là thiền định
18) Phương thức
Thiền Tông
Đặc điểm
của Ngũ Tổ : có phương
thức rơ ràng ! trong
khi người ta thường nói Thiền Tông là Cửa Không Cửa.
Ngũ Tổ đă
đưa ra ba phương thức sau (về
yếu chỉ thiền tông và giải quyết vấn
đề vô niệm) :
a) "Không trụ vào đâu
cả !"
Đây là yếu chỉ thứ
nhất của Thiền Tông .
Yếu chỉ thứ nhất của
Thiền Tông xuất phát từ Kinh Kim Cang, và ta biết
được là nhờ pháp Kim Cang Công
Truyền của Ngũ Tổ.
b) "Niệm
niệm không trụ"
đây là ‘biến thế‘
của"Không trụ vào đâu cả !" và là
yếu chỉ thứ nh́ của Thiền Tông
Ngũ Tổ đă dạy pháp này, hai
lần trong Luận Tối Thượng Thừa.
c) Giải quyết
vấn đề vô niệm :Niệm mà không trụ !
Ba phương thức tối ư
quan trọng này của Thiền Tông đều là pháp Thiền của Ngũ Tổ và công lao
của Ngũ Tổ , vị
thiền-sư vĩ đại.
Xem bài viết
Ngũ
Tổ và Luc Tổ : niệm niệm không trụ !
19) Trực Chỉ Chân Tâm
Phần lớn của Luận Tối
Thượng Thừa
của Ngũ Tổ là
để Trực Chỉ Chân Tâm.
Trích Luận Tối Thượng
Thừa , Ngũ Tổ :
{{ Hỏi : Làm sao biết tâm ḿnh xưa nay thanh tịnh?
Đáp :Kinh
Thập Địa nói: "Trong thân chúng sanh có Phật tánh
Kim cang, ví như mặt trời tṛn đầy sáng suốt không
ngăn ngại. Chỉ v́ bị mây đen ngũ ấm che
đậy, như ngọn đèn để trong b́nh, ánh sáng
không thể chiếu soi. Thí như thế gian tám
hướng mây mù đều dậy, khắp nơi
đều tối tăm. Mặt trời đâu có tan
hoại, tại sao không có ánh sáng? Ánh sáng nguyên không hoại,
v́ bị mây mù che. Tâm thanh tịnh của tất cả chúng
sanh cũng như thế. Chỉ v́ bị mây đen vin theo
vọng niệm phiền năo và các kiến chấp che
đậy. Nếu hay giữ tâm lắng lặng, vọng
niệm không sanh th́ pháp niết bàn tự nhiên hiển
hiện". Cho nên biết, Tâm ḿnh xưa nay thanh tịnh.
Hỏi : Làm sao biết Tâm
ḿnh xưa nay không sanh diệt?
Đáp : Kinh Duy Ma nói:
"Như không có sanh, Như không có diệt". Như là
Chơn như Phật tánh tự tánh thanh tịnh. Thanh
tịnh là nguồn của tâm. Chơn như vốn không
từ duyên sanh. Lại nói: "Tất cả chúng sanh
đều Như, các hiền thánh cũng Như".
Tất cả chúng sanh là chúng ta vậy. Các hiền thánh
tức là chư Phật vậy. Danh tướng tuy khác,
chơn như pháp tánh nơi thân đều đồng.
Không sanh không diệt nên nói đều "Như".
Thế là, biết Tâm ḿnh xưa nay không sanh không diệt.
Hỏi : Sao gọi Tâm ḿnh
là bổn sư ?
Đáp : Chơn tâm nầy
sẳn có, không từ ngoài đến, không ràng buộc trong
ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai).
Chổ chí thân không ǵ hơn tự giữ Tâm nầy.
Nếu người biết tâm, giữ tâm ắt
đến bờ kia. Người mê tâm, bỏ tâm th́
đọa tam đồ (địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh). Chư Phật ba đời đều
lấy tâm làm bổn sư. Luận nói: "Rơ ràng giữ
tâm th́ vọng niệm không khởi, tức là vô sanh". Cho
nên biết Tâm là bổn sư.
Hỏi : Sao nói Tâm ḿnh
vượt hơn niệm các đức Phật?
Đáp : Thường
niệm các đức Phật chẳng khỏi sanh tử,
giữ bổn tâm ḿnh th́ đến bờ kia. Kinh Kim Cang
nói: "Nếu do sắc thấy ta, do âm thanh cầu ta,
người ấy hành đạo tà, không thể thấy
Như Lai". Cho nên nói "giữ chơn tâm nầy vượt
hơn niệm các đức Phật". Vượt
hơn chỉ là lời nói nhằm vào sự tu hành và khuyên
người, kỳ thật quả thể cứu cánh không
hai.
Hỏi : Chúng sanh cùng
Phật về chơn thể đă đồng, tại sao
chư Phật không sanh không diệt, thọ vô lượng
khoái lạc tự tại không ngại, chúng sanh chúng ta
đọa trong sanh tử chịu các thứ khổ?
Đáp : Chư Phật
mười phương ngộ đạt pháp tánh,
đều tự nhiên chiếu sáng nơi nguồn tâm,
vọng tưởng không sanh, chánh niệm không mất, tâm
ngă sở diệt, nên được không thọ sanh
tử. Không sanh tử nên rốt ráo vắng lặng, cho nên
muôn cái vui đầy đủ. Tất cả chúng sanh mê
chơn tánh, không biết gốc tâm, các thứ vọng duyên,
không tu chánh niệm, nên tâm yêu ghét dấy khởi. Do yêu ghét
nên hồ tâm bị bể chảy; hồ tâm bị bể
chảy nên có sanh tử, có sanh tử th́ các khổ
đều hiện. Kinh Tâm Vương nói: "Chơn
như Phật tánh lặn trong biển sáu thức thấy
biết, ch́m đắm sanh tử không được giải
thoát". Cố gắng lănh hội chỗ ấy, giữ
chơn tâm th́ vọng niệm không sanh, tâm ngă sở
diệt, tự nhiên cùng Phật b́nh đẳng không hai.
}}
Trích Kinh Pháp Bảo
Đàn :
{{ Ngũ Tổ nói (với
Thần Tú) : . . . Tâm của ḿnh chẳng sanh chẳng
diệt, trong cả thảy thời gian, niệm niệm
ḿnh thấy tánh. Đối với muôn
pháp, tâm ḿnh suốt thông, không ngưng trệ. Một pháp, ḿnh thấy hiểu chơn
tướng. Cả thảy các pháp, ḿnh
đều hiểu thấu chơn tướng. Đối với muôn cảnh, tâm ḿnh như
như. Tâm như như tức là tâm chơn
thật. Thấy như thế, tức là thấy
Vô Thượng Bồ Đề của ḿnh.}}
20) Lập Tông bởi
Tổ Đạt Ma, phát triển bởi Ngũ Tổ
Thiền-tông
được lập bởi Tổ Đạt Ma, phát
triển bởi Ngũ Tổ
Xem bài viết
Kim Cang Công Truyền và thời kỳ hưng
thịnh của Thiền Tông
21) Đặc thù của
Thiền Tông Đông Độ
Đặc thù của
Thiền Tông Đông Độ là những nét đặc
biệt của pháp của Ngũ Tổ.
Sau đây là vài nét chính
(đă bàn đến trong bài luận này) :
_Kim Cang Công Truyền
_chỉ có Kim Cang Công
Truyền là tự tu, tự
chứng, tự thành Phật Đạo !
_có phương thức rơ
ràng ! trong khi người ta
thường nói Thiền Tông là Cửa Không
Cửa.Ngũ Tổ đă đưa ra ba phương
thức (về yếu chỉ thiền tông và giải
quyết vấn đề vô niệm).
_H́nh như trước Ngũ Tổ,
chưa có vị Tổ nào xác
định nguyên tắc Đốn ngộ của
Thiền-tông một cách rơ ràng và chắc nịch
như ngài.
_Ngũ Tổ xác
định rằng Thiền-tông chẳng phải là thiền định
22) Đức Hoàng Mai
Thiền Tông Đông
Độ chỉ có 5 vị Tổ chính thức ( từ
Nhị Tổ đến Lục Tổ) , vậy mà có
đến hai vị ở đất Hoàng Mai : Tứ Tổ và Ngũ Tổ . Tuy nhiên khi nói
đến Đức Hoàng Mai ,
người ta muốn nói :Ngũ
Tổ .
Nhắc lại : gọi người bằng nơi chốn là
để tỏ ḷng kính trọng.
Sách vở Thiền Tông
đến nay vẫn dùng "Đức Hoàng Mai" để ch́ Ngũ Tổ
Cũng là một cách xác
định ảnh hưởng của Ngũ Tổ
Hoằng Nhẫn .
*
*
* Lê Anh Chí *.
_____________
Kinh sách tham khảo
Kinh :
Kinh
Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh
Đại
Thừa Kim Cang Kinh Luận
Cuộc
đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch
giả Thích Trung Quán
Kinh
Kim Cang, dịch giả Đoàn Trung C̣n
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Trí Tịnh
Kinh
Kim Cang và Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú
giải : Thích Huyền Vi
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Duy Lực
Ngữ Lục (đến đời
Lục Tổ):
Sáu
cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ,
dịch giả Trúc Thiên
Luận
Tối Thượng Thừa , Ngũ Tổ, dịch
giả Thích Thanh Từ
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh
Trực
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy
Lực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác,
dịch giả Trúc Thiên
Ngữ Lục (sau đời Lục
Tổ):
Bá
Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy
Lực
Truyền
Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy Lực
Cội
nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của
thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn
tâm trực thuyết, Phổ Chiếu
Lâm
Tế Ngữ Lục
Thiền
Đốn Ngộ, nhiều tác giả :
Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành Kim, Oánh
Sơn, Hư Vân; dịch
giả Thích Thanh Từ
Tọa
Thiền Luận, Đại Giác, dịch giả Như
Hạnh
Tu tâm
quyết, Phổ Chiếu
Sách :
Tứ Diệu
Đế, Thích Thiện Hoa
Thiền
Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ
Tổ
Thiền Tông, Thích Thanh Từ
Cao Tăng Dị
Truyện, Hạnh Huệ biên dịch
*
*
*
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
-------------------------------------------------------
* Trang Chính
* M
ụ c L ụ c * Đoản
Luận * Thơ *
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Nối
kết Trang Nhà Phật Pháp Việt Nam * Nối kết Văn Học *
------------------------------------------------------------------------------
Bài
mới Kiến Tánh * Bài mới Trang LêAnhChí *
--------------------------------------------------