Chẳng
phải phá chấp !
Lê
Anh Chí
__________________________________________
Dàn Bài :
I ) Khéo dùng phương
tiện
II ) Tưởng ngón tay là
mặt trăng
III ) Chẳng phải phá
chấp mà chỉ chân lư
IV ) Chẳng phải phá
chấp mà chỉ điểm sự Kiến Tánh
V ) Chân lư là tuyệt
đối
VI ) Người đă
Kiến Tánh chẳng bị ‘phá chấp‘
VII ) Chỉ người
đă Kiến Tánh mới nên ‘phá chấp‘
__________________________________________
I ) Khéo dùng phương
tiện
Nguyên lư của Thiền Tông
là "Khéo dùng phương tiện ! "
Khéo dùng phương tiện ! để làm ǵ ? Để
_Trực Chỉ Nhân Tâm
_Trực Chỉ Chân Tâm
_thiền sinh có thể
chuyển tâm một cái rầm !
_thiền sinh có thể NHẢY Một Cái vào
thẳng đất Như Lai
(Chứng
Đạo Ca)
II ) Tưởng ngón tay là
mặt trăng
Những phương
tiện thiện xảo được các Tổ Thiền
Tông dùng với mục đích kể trên, thường
được các nhà chú giải gọi là "phá
chấp".
Do đó, có rất nhiều
thiền sinh rất khoái "phá chấp".
Sự thực th́ "phá
chấp" rất dễ : chỉ
cần nói mâu thuẫn và dùng thiền ngữ khéo léo là
được !
"phá chấp" như
vậy là hí luận !
Thích "phá chấp"
như vậy = tưởng ngón tay là mặt trăng
III ) Chẳng phải phá
chấp mà chỉ chân lư
Phật và Tổ chẳng
phải phá chấp mà chỉ chân lư.
V́ chân lư khó thể diễn
tả bằng ngôn ngữ thế gian, nên phải phủ
nhận hoài, riết rồi th́ cái chân lư đó chính là "
chẳng phải " của tất cả những
điều đă được nêu ra.
Một thí dụ lớn
về sự phủ nhận liên tục này là cái mà các nhà chú
giải gọi là ‘nghĩa ba câu’ trong Kinh Kim Cang
Nghĩa ba câu là :
_là X
_chẳng phải là X
_tạm gọi là X
Giải
thích : chân lư không
thể định danh được, v́ ngôn ngữ
không đủ lời để diễn tả chân lư ; do đó :
_định danh là X
_chẳng phải là X :
phủ nhận X liền sau đó, v́ X
không đủ để diễn tả chân lư
_tạm gọi là X :
lại khẳng định X, v́ đại khái chỉ có X
là tạm diễn
tả được
chân lư
Nghĩa ba câu là vậy.
Nhưng nếu bảo rằng cứ lư luận
như vậy là
đạt đại
ư Kinh Kim Cang th́ lầm
to, th́ chỉ là hí luận ! V́ lư luận như
thế, ai mà chẳng lư luận được !
Ngay những kẻ chập chững vào Thiền Tông cũng
biết hí luận
theo nghĩa ba câu : trong ‘Tiểu Lư Phi Đao’ ( truyện kiếm hiệp) của Cổ Long, hai nhân vật
chính là Lư Tầm Hoan và
Tiểu Phi cũng dùng ‘nghĩa ba câu’ dài dài, mà họ có hiểu ǵ về
Thiền, về Phật Pháp đâu ! ư chừng Cổ
Long tiên sinh cũng tự phụ là hiểu Thiền,
biết thiền !
IV ) Chẳng phải phá
chấp mà chỉ điểm
sự Kiến Tánh
Tổ Thiền Tông chẳng
phải phá chấp mà nói để chỉ
điểm cho người được Kiến Tánh
Lời nói đôi khi
ngược ngạo, ngược lại những
điều thiên hạ tưởng là chân lư. Đây là giáo
ngoại biệt truyền, biệt truyền v́ tùy căn cơ
người học mà chỉ điểm. Căn cơ
mỗi người mỗi khác nên mới biệt
truyền, nên mới có những lời mà người
đời tưởng là phá chấp mọi sự
thực, tưởng là phá
chấp để phá chấp !
Phá chấp để phá
chấp là hí luận, là khẩu đầu thiền !
Tổ Thiền Tông chẳng
phá chấp mà nói để chỉ
điểm cho người được Kiến Tánh !
V ) Chân lư là tuyệt
đối
Chân lư là tuyệt đối
Chân lư là Phật Tánh.
Phật Tánh là Thường,
Lạc, Ngă, Tịnh, là Đại Niết Bàn, là Niết Bàn
của Phật.
Tất cả phương
tiện khéo dùng là để chỉ điểm cho
người được
Kiến Tánh ! để chỉ điểm cho
người được
chứng ngộ Phật Tánh !
Khi mục đích đă
đạt được th́ không c̣n dùng phương
tiện !
VI ) Người đă
Kiến Tánh chẳng bị ‘phá chấp’
V́ Chân lư là tuyệt
đối
Nên,
Người đă Kiến
Tánh ( đă chứng Chân Lư) chẳng bao giờ bị ‘phá
chấp‘
Chẳng bao giờ một
vị Tổ lại đi ‘phá
chấp‘ một người đă Kiến Tánh !
Điều đó cho
thấy : phá chấp để phá chấp là
điều chẳng bao giờ Tổ Thiền Tông làm !
VII ) Chỉ người
đă Kiến Tánh mới nên ‘phá chấp‘
Chỉ người đă
Kiến Tánh mới nên ‘phá chấp‘ !
Bởi v́ :
_Chẳng phải phá chấp mà chỉ chân lư. Chỉ người đă
Kiến Tánh mới đă chứng chân lư, do đó, mới có
thể chỉ chân lư.
_Chẳng phải phá chấp mà chỉ điểm sự Kiến Tánh. Chỉ
người đă Kiến Tánh mới có thể chỉ
điểm sự Kiến Tánh !
Nếu chưa Kiến Tánh,
th́ chẳng nên khệnh gậy, chưởi bới, nói xuôi
nói ngược thiền lư, nói ‘phùng Phật sát Phật’ . .
.
Nếu chưa Kiến Tánh,
th́ chẳng nên bắt chước Đức Sơn, Lâm
Tế ; v́ như thế, chỉ là làm bậy, nói
khẩu đầu thiền, không những thế, c̣n mang
tội đại vọng ngữ . . .
*
*
* Lê Anh Chí *.
_______________
Kinh sách tham khảo
Kinh :
Kinh
Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh
Đại
Thừa Kim Cang Kinh Luận
Cuộc
đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch
giả Thích Trung Quán
Kinh
Kim Cang, dịch giả Đoàn Trung C̣n
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Duy Lực
Kinh
Kim Cang, dịch giả Thích Thiện Hoa
Kinh
Lăng Nghiêm, dịch giả Trí Độ và Tuệ Quang
Kinh THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG, dịch giả Nhẫn Tế
Kinh
Trường A Hàm, dịch
giả Thích Thiện Siêu
Kinh Vô Ngă Tướng, dịch
giả Phạm Kim Khánh
Ngữ Lục (đến
đời Lục Tổ):
Sáu
cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ,
dịch giả Trúc Thiên
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy
Lực
Kinh
Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh
Trực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác, dịch
giả Trúc Thiên
Ngữ Lục (sau
đời Lục Tổ):
Bá
Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy
Lực
Truyền
Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy Lực
Cội
nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của
thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn
tâm trực thuyết, Phổ Chiếu
Lâm
Tế Ngữ Lục
Thiền
Đốn Ngộ, nhiều tác giả : Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành Kim,
Oánh Sơn, Hư Vân; dịch
giả Thích Thanh Từ
Tọa
Thiền Luận, Đại Giác, dịch giả Như
Hạnh
Tu
tâm quyết, Phổ Chiếu
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
--------------------------------------------------------------
* Trang Chính * M ụ c L ụ c * Đoản Luận
* Thơ *
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Bài mới
* Nối kết Trang Nhà Phật Pháp Việt Nam *
------------------------------------------------------------------------------