Chẳng phải Vô Ngă, chẳng phải Đại Ngă 

 

                        Lê Anh Chí

 

Dàn Bài :

I ) Thực trạng của cuộc đời là bể khổ

Cuộc đời ác trược

Cuộc đời vô thường

II ) Thực trạng của (Vọng) Tâm là Vô Ngă

Vọng Tâm Vô Ngă : v́ nhân duyên sinh

Vọng Tâm Vô Ngă : v́ chẳng phải là ta, v́ chẳng có Ngă 

III ) Chẳng phải Bản Ngă, chẳng phải Vô Ngă, chẳng phải Không

Hiểu lầm chữ Bản Ngă, Vô Ngă 

Không Chấp Ngă 

Quán Vô Ngă , Luyện Không

Chẳng phải Vô Ngă, chẳng phải Không

IV ) Là Bản Thể của Tâm, là Thường Lạc Ngă Tịnh

V ) Chẳng phải Đại Ngă, chẳng phải Tiểu Ngă 

VI ) Là Chân Ngă, là Thường Lạc Ngă Tịnh

VII ) Phật Pháp là Đại B́nh Đẳng

Phật Tánh là Đại B́nh Đẳng

VIII ) Chân lư là Đại B́nh Đẳng

 

 

        Tṛn đầy thái hư

        Không thiếu không dư

        Chẳng phải thái hư

        Chẳng có thiếu dư

                Là Đại Ngă

                Chẳng phải là Đại Ngă

                Là thiên lư lưu hành

                Chưa từng lưu hành thiên lư . . .

        (Phật Tánh, Lê Anh Chí)

 

I ) Thực trạng của cuộc đời là bể khổ

 

Cuộc đời là bể khổ !

Người Tây Phương thường xem đây là quan điểm bi quan về cuộc đời. Sự thực th́, đây là quan điểm chẳng bi quan, chẳng lạc quan, chỉ là thực tế !

Trong cuốn Tứ Diệu Đế, phần Khổ Đế, cố HT Thích Thiện Hoa nói khá đầy đủ về bể khổ.

đây, chỉ nói về hai điểm : vô thường và  ác trược.

 

Cuộc đời vô thường

 

Cuộc đời là vô thường ! Danh vọng , của cải rồi sẽ biến đi hết, cả đến gia đ́nh cũng sẽ thành không, chết chẳng thể mang theo. Mà ngay trong cuộc đời này, Sắc Tài Quyền Lộc cũng thay đổi luôn. Mà thay đổi là vô thường ! Có thay đổi tất có thể bị diệt.

 

Cuộc đời ác trược

 

Cuộc đời ác trược . Con người ta ganh ghét , tị hiềm, đố kỵ ; sống trong cuộc đời khó được yên. Người đời v́ ganh tài mà giết hại, v́ tranh quyền tranh sắc mà giết hại, lại c̣n học khôn, học’thông minh’, mưu cao kế hiểm mà giết hại. Giả thử chỉ muốn sinh sống qua ngày cũng khó được yên thân !

 

Cuộc đời quả là bể khổ ! đây là thực trạng của cuộc đời, dẫu làm Hoàng Đế hay ăn mày cũng đều khổ mà thôi !

 

II ) Thực trạng của (Vọng) Tâm là Vô Ngă

 

Vô Ngă chẳng phải là cái ǵ cao siêu huyền diệu, chỉ là thực trạng của (Vọng) Tâm ! Sở dĩ được coi là cao siêu v́ các tôn giáo khác lầm tưởng Vọng Tâm là Ngă  mà thôi !

Vô Ngă là thực trạng của Tâm, của Thọ, Tưởng, Hành, Thức . Điều này thật rất dễ hiểu :

 

Vọng Tâm Vô Ngă : v́ nhân duyên sinh

 

Từ vô lượng kiếp, ta trôi dạt luân hồi, bồi đắp cái Vọng Tâm.

Từ vô lượng kiếp, nhân duyên bồi đắp cái Vọng Tâm, cái mà chúng sinh gọi là Bản Ngă.

Cái " Bản Ngă " này do nhân duyên ḥa hợp nên có. Phật gọi là Vô Ngă.

Vọng Tâm là Vô Ngă. 

 

Vọng Tâm Vô Ngă : v́ chẳng phải là ta, v́ chẳng có Ngă 

 

Vô Ngă c̣n có nghĩa là "chẳng phải là ta". Đây là nghĩa chính yếu của chữ Vô Ngă .

Vọng Tâm là Vô Ngă : v́ Vọng Tâm chẳng phải là ta. Cái "chẳng phải là ta" này Phật gọi là Vô Ngă.

Vọng Tâm là Vô Ngă . Cái mà chúng sinh tưởng là ta, thật chẳng phải là ta, chẳng có Ngă . Chẳng có Ngă v́ vô thường, chốc thế này, chốc thế nọ, lan man bất định. Cái mà chúng sinh gọi là Bản Ngă, Phật gọi là Vô Ngă.

Cái " Bản Ngă " này chẳng phải là ta  Tâm can ta phàn lớn là do giáo dục, hoàn cảnh, tập nhiễm của sách vở (nhân duyên). Bản Ngă của dân Á khác Bản Ngă của dân Âu. Có 2 Bản Ngă sâu đậm của con người : 1) tưởng rằng ta là người  2) tưởng rằng ta là đàn ông (hay đàn bà). Cả hai Bản Ngă này đều chẳng phải là ta.

        Đàn ông th́ cứ tưởng rằng ta là đàn ông, suốt đời nghĩ như vậy, hành động như vậy. Khi nào đầu thai làm người nữ, sẽ lại nghĩ ḿnh là người nữ.

        Ai cũng tưởng rằng ta là người  Khi nào đầu thai làm người trời, A Tu La, ngạ quỉ, súc sinh  vv th́ sẽ lại nghĩ ḿnh là trời, A Tu La, ngạ quỉ, súc sinh . . .

 

Chẳng có Ngă ! chẳng phải là ta !

Thực trạng của (Vọng) Tâm là Vô Ngă !

 

 

III ) Chẳng phải Bản Ngă, chẳng phải Vô Ngă, chẳng phải Không

 

Hiểu lầm chữ Bản Ngă, Vô Ngă 

 

Bản Ngă không phải là một thuật ngữ Phật Giáo, mà là chữ thường dùng của người đời, của tâm lư học. Cái mà chúng sinh gọi là Bản Ngă, Phật gọi là Vô Ngă.

Người Phật Tử chân chính hiểu Phật Pháp, th́ không bàn về Bản Ngă nữa, v́ biết rằng đó là Vọng Tâm, đó là Vô Ngă.

 

Nhưng, nhiều người vẫn nói Bản Ngă, bàn Bản Ngă, dùng chữ Bản Ngă, v́ xem rằng Bản Ngă là cái Tâm chân thật của Ta !  Họ đưa Vô Ngă lên địa vị cao thăng, thậm chí c̣n xem Vô Ngă là trạng thái của Tâm của người đắc đạo ! Thậm chí, họ c̣n bảo rằng đắc đạo là "đạt Vô Ngă ".

Nói vậy là sai :

        Vô Ngă là thực trạng của Tâm, của Thọ, Tưởng, Hành, Thức ; dẫu người đắc đạo  hay kẻ phàm phu cũng có (Vọng) Tâm là Vô Ngă ; đâu có thể nói người đắc đạo  là "đạt Vô Ngă " ?

 

Không Chấp Ngă 

 

Chỉ có thể nói bảo rằng người đắc đạo :

        th́  "chẳng v́ ta", th́ chẳng chấp ngă, th́ "biết, thấy Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là Vô Ngă ", th́ "biết, thấy (Vọng) Tâm là Vô Ngă".

        chẳng chấp ngă, chẳng chấp thân này là ta, chẳng chấp tâm này (Vọng Tâm) là ta.

 

Quán Vô Ngă , Luyện Không

 

Vô Ngă và Không là chỗ cao siêu của Phật Pháp so với các tôn giáo khác.  Nhưng đây là chỗ cao siêu đầu tiên, chẳng phải là chân lư tuyệt đỉnh của nhà Phật !

Vô Ngă và Không là chân lư tuyệt đỉnh của Nhị Thừa ( phân nửa chân lư của Phật Pháp ). Trong suốt mười mấy năm đầu chuyển pháp luân, Phật chỉ giảng Nhị Thừa, tóm lược là 2 pháp môn chính : Quán Vô Ngă và Luyện Không

 

Quán Vô Ngă . Như trong Kinh Ngăớng,  Phật dạy quán Thọ, Tưởng, Hành, Thức là Vô Ngă . Thành công trong pháp quán này, th́ đắc A La Hán.

 

Luyện Không. Nguyên tắc là dùng thiền định để diệt phiền năo. Dùng thiền định để đạt được rốt ráo không. Thành công trong pháp này, th́ đắc A La Hán.

 

Chẳng phải Vô Ngă, chẳng phải Không

 

Vô Ngă và Không là chân lư tuyệt đỉnh của Nhị Thừa, chân lư tương đối ( phân nửa chân lư của Phật Pháp ). Trong Kinh Ngăớng,  Phật dạy Thọ, Tưởng, Hành, Thức chẳng phải là ta .

 

Vậy, cái ǵ là ta ?

Măi măi, Nhị Thừa chẳng trả lời được.

 

Trả lời là " Vô Ngă  " th́ chẳng đúng : Vô Ngă là thực trạng của Vọng Tâm, của Thọ, Tưởng, Hành, Thức ; nào phải là ta !

Trả lời là " Không " cũng chẳng đúng : ta tu ‘Không’ để diệt năo phiền, nhưng rơ ràng có cái bản thể từ vô lượng kiếp có cái năng ‘Không’, có cái kư ức  lưu trữ cả vô lượng kiếp luân hồi và có vô số khả năng khác.

 

Cái bản thể này chẳng phải là Vô Ngă, chẳng phải là Không.

 

 

IV ) Là Bản Thể của Tâm, là Thường Lạc Ngă Tịnh

 

Vậy, cái ǵ là ta ?

Măi đến khi Phật giảng Đại Thừa, câu hỏi này mới được trả lời.

 

Là Phật Tánh.

Là Bản Thể của Tâm

Là Thường Lạc Ngă Tịnh

 

Phật Tánh chẳng hề sinh và chẳng bao giờ diệt . ( V́ Phật Tánh chẳng hề sinh cho nên sẽ chẳng bao giờ bị diệt ).

Phật Tánh của tất cả chúng sinh đều b́nh đẳng với chư Phật, không khác : đều là Thường, Lạc, Ngă, Tịnh. (Kinh Đại Bát Niết Bàn ).

 

Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận :

        Tất cả chúng sinh

        Đều có Phật Tánh

        Xưa nay chẳng sinh

        Xưa nay chẳng diệt . . .

 

 

V ) Chẳng phải Đại Ngă, chẳng phải Tiểu Ngă 

 

Phật Tánh, cái Bản Thể của Tâm, chẳng phải là Đại Ngă, chẳng phải là Tiểu Ngă .

Đại Ngă là suy luận của triết gia Độc Thần Giáo , dần dần ung đúc tạo thành.

Nói đến Đại Ngă là phải nói đến Tiểu Ngă .

Đó là quan niệm tin Ông Thần Duy Nhất (Đại Ngă) sinh ra linh hồn ( Tiểu Ngă ). Tiểu Ngă mà có ḷng tin, th́ sẽ được lên Thiên Đàng, ḥa hợp cùng Đại Ngă. (Khi bị ảnh hưởng của Phật Pháp, th́ họ nói rằng Tiểu Ngă tu hành khá th́ sẽ được lên Thiên Đàng, ḥa hợp cùng Đại Ngă).

 

Phật Tánh, th́ không phải vậy, chẳng phải là Đại Ngă, chẳng phải là Tiểu Ngă .

Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận :

        Tất cả chúng sinh

        Đều có Phật Tánh

        Xưa nay chẳng sinh

        Xưa nay chẳng diệt . . .

V́ ‘Xưa nay chẳng sinh’ nên chẳng phải là Tiểu Ngă, v́ Phật Tánh của tất cả chúng sinh đều b́nh đẳng với chư Phật, nên chẳng phải là Đại Ngă, chẳng phải là Tiểu Ngă. Chẳng có Đại Ngă, v́ chẳng có Tiểu Ngă . Chẳng phải là Đại Ngă, chẳng phải là Tiểu Ngă nên chẳng có Đại Ngă, chẳng có Tiểu Ngă .

 

 

VI ) Là Chân Ngă, là Thường Lạc Ngă Tịnh

 

Là Phật Tánh.

Là Bản Thể của Tâm

Là Thường Lạc Ngă Tịnh

 

Chẳng phải là Đại Ngă, chẳng phải là Tiểu Ngă.

Phật Tánh là Chân Ngă.

Chân Ngă là Thường Lạc Ngă Tịnh

Chân Ngă chẳng hề sinh ( chưa từng do ai hay vật ǵ sinh ra hết ) nên chẳng bao giờ diệt . Là Thường Lạc Ngă Tịnh mà không sắc không thanh không vị xúc không ư :

        Bao la như vũ trụ

        Chiếu soi khắp mười phương

        Lại chịu đời chật vật

        Theo xác thân lạc sáu đường

                Lặn hụp trong ái hà

                Mà chưa hề dâm dục

                Bị giam cầm địa ngục

                Mà tự tại như nhà

        Chẳng phải là sắc thanh

        Cũng không là vị xúc

        Chẳng thể tưởng tượng thành

        V́ không phải là ư

        (Phật Tánh, Lê Anh Chí)

 

Theo xác thân trôi dạt trong sáu đường, mà vẫn tṛn Thường Lạc Ngă Tịnh.

 

Đây là chỗ sống chết của Thiền Tông : là chứng ngộ Chân Ngă là chứng ngộ Thường Lạc Ngă Tịnh, chớ không phải là trau giồi Vọng Ngă, không phải là đắc Không như Nhị Thừa.

 

 

VII )  Phật Pháp là Đại B́nh Đẳng

 

Phật Tánh là Đại B́nh Đẳng

Do đó,

        Phật Pháp là Đại B́nh Đẳng.

 

Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận :

        Tất cả chúng sinh

        Đều có Phật Tánh

        Xưa nay chẳng sinh

        Xưa nay chẳng diệt . . .

Phật Tánh chẳng hề sinh và chẳng bao giờ diệt . ( V́ Phật Tánh chẳng hề sinh cho nên sẽ chẳng bao giờ bị diệt ). Phật Tánh của tất cả chúng sinh đều chẳng sinh , chẳng diệt. Đại B́nh Đẳng !

Phật Tánh của tất cả chúng sinh đều b́nh đẳng với chư Phật, không khác : đều là Thường, Lạc, Ngă, Tịnh. (Kinh Đại Bát Niết Bàn ). Phật Tánh là Chân Ngă, Chân Ngă này có Thường, Lạc, Tịnh. Chân Ngă chứ chẳng phải là Đại Ngă v́ nói đến Đại Ngă là nói đến Tiểu Ngă, trong khi Phật Tánh của tất cả chúng sinh đều b́nh đẳng với chư Phật. Chân Ngă chẳng phải là Đại Ngă cũng chẳng phải là Tiểu Ngă.

Phật Tánh là Đại B́nh Đẳng.

Do đó,

        Phật Pháp là Đại B́nh Đẳng.

 

Đối chiếu với các tôn giáo thuộc Độc Thần Giáo :

        Trong Độc Thần Giáo , tin Ông Thần Duy Nhất (sang Việt Nam, Ông Thần Duy Nhất  được gọi là Thượng Đế) th́ được lên Thiên Đàng, không tin th́ xuống hoả ngục măi măi . Linh hồn là vĩnh cửu : John Smith sẽ măi măi là John Smith, sẽ vĩnh viễn là đàn ông, sẽ vĩnh viễn là da trắng, sẽ vĩnh viễn là người dân Anh, sẽ măi măi là chúng sinh  ; chỉ có Ông Thần Duy Nhất  là độc tôn, là Ông Thần, là Duy Nhất.

        Ông Thần Duy Nhất sinh ra tất cả chúng sinh ; chỉ có Ông Thần Duy Nhất là chẳng ai sinh ra hết.  tất cả chúng sinh đều phụ thuộc vào một người . ( C̣n một vấn đề nữa là : linh hồn do Ông Thần Duy Nhất sinh ra, như vậy, linh hồn có thể bị Ông Thần Duy Nhất diệt ! )

        Độc Thần Giáo thật là Bất B́nh Đẳng.

 

Xin nhắc lại :

        Phật Tánh của tất cả chúng sinh đều chẳng sinh , chẳng diệt. Đại B́nh Đẳng !

        Phật Tánh của tất cả chúng sinh đều b́nh đẳng với chư Phật. và chúng sinh có thể thành Phật.

 

Thế nên,

        Phật Tánh là Đại B́nh Đẳng.

        Phật Pháp là Đại B́nh Đẳng.

 

Phật Pháp là Đại B́nh Đẳng c̣n ở những chỗ khác nữa. Dẫu sao, chỗ Đại B́nh Đẳng này (Phật Tánh)  là chỗ gốc,  v́ là Nhân của Nhân Duyên con người, v́ là Nhân của nguồn gốc con người.

 

 

VIII ) Chân lư là Đại B́nh Đẳng

 

Phật Pháp là Đại B́nh Đẳng.

mà Phật Pháp là Chân Lư.

nên Chân Lư là Đại B́nh Đẳng !

 

Thật là may mắn cho chúng sinh !

Khi ta thấy cuộc đời là bể khổ, ta từ khước cuộc đời đi t́m Chân Lư. May mắn làm sao ta t́m thấy Phật Pháp : Phật Pháp là Đại B́nh Đẳng. Phật Pháp là Chân Lư. Chân Lư là Đại B́nh Đẳng ! May mắn làm sao Chân Lư là Đại B́nh Đẳng !

 

Thật là may mắn cho chúng ta biết là dường nào ! Thật là hạnh phúc xiết bao !

 

 

-------------------------------------

Kinh sách tham khảo

Kinh :

        Kinh Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh

        Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận

        Cuộc đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán

        Kinh Kim Cang

        Kinh Lăng Nghiêm,  dịch giả   Trí Độ và Tuệ Quang

        Kinh Trường A Hàm,  dịch giả   Thích Thiện Siêu

        Kinh Ngăớng,  dịch giả Phạm Kim Khánh

Ngữ Lục (đến đời Lục Tổ):

        Sáu cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên

        Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh Trực

        Chứng Đạo Ca, Huyền Giác dịch giả Trúc Thiên

Ngữ Lục (sau đời Lục Tổ):

        Bá Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy Lực

        Cội nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của thiền tông, Nguyệt Khê

        Chơn tâm trực thuyết, Phổ Chiếu

        Lâm Tế Ngữ Lục

 

 

Lê Anh Chí.

        --------------------------------------------------------------

        * Trang Chính * M ụ c  L ụ c  * Đoản Luận * Thơ *

------------------------------------------------------------------------------

* Hộp Thư * Bài mới * Nối kết Trang Nhà Phật Pháp Việt Nam *

------------------------------------------------------------------------------

              Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com