Tại sao Kiến Tánh
lại là Thành Phật
Lê Anh Chí
Dàn
Bài :
I) Bàn về
Định nghĩa Kiến Tánh
[a] Định nghĩa về lư
[b] Định nghĩa về
sự (Trạng thái Kiến Tánh)
[c] Không thể định
nghĩa bừa Kiến Tánh
[d] Định nghĩa tối
thiểu
II) Kiến Tánh Thành Phật, Bản
Thể của Tâm
III) Lời Giải Thích của Tổ
Đạt Ma
IV) Trạng Thái của Tâm
V) Trạng Thái của Tâm của
"thần nhân"
VI) Trạng Thái của Tâm
người Quân Tử
VII) Trạng Thái của Tâm Thánh Nhân Lăo
Trang
VIII) Trạng Thái của Tâm Thánh Nhân nhà
Phật
Phụ
Lục : Thánh Nhân và Độc thần Giáo
IX) Trạng Thái của Tâm của
Phật
X) Kiến Tánh là Thành Phật
XI) Kiến Tánh Thành Phật, chứng
đắc tất cả các pháp của Như Lai !
Muôn ngàn
chứng đắc
Tại sao có
thể chứng đắc tất cả các pháp của
Như Lai ?
XII) Chẳng có ai thành Phật !
XIII) Pháp môn Kiến Tánh = Tu Tắt
Tại sao
Kiến Tánh lại là Thành Phật ?
Trong bài
luận " Kiến Tánh Thành Phật ", câu hỏi
này đă được trả lời : bằng
lời giải thích của Tổ Đạt Ma.
Chủ
yếu bài viết này là giải thích lời giải thích
của Tổ Đạt Ma
I) Bàn
về Định nghĩa Kiến Tánh
[a]
Định nghĩa về lư
Kiến Tánh
là thấy tánh, là thấy Phật-tánh. Thấy đây là tâm
thấy, là thực chứng. V́ vậy :
Kiến Tánh là thể ngộ
Phật Tánh, thể chứng Đại Niết Bàn.
Chữ
<thể> được
lập lại, v́ đây là sự Thực
Chứng : chẳng phải kiến văn giác tri,
chẳng phải là biết, chẳng phải là hiểu. Ví
như phải tự ăn cơm th́ mới no, c̣n hiểu
biết rằng <ăn cơm th́ no> th́ chẳng ich
lợi ǵ !
Kinh
Đại Bát Niết Bàn :
Phật Tánh là Đại Niết Bàn. Đại
Niết Bàn là Niết Bàn của Phật ( khác với Niết Bàn của
A La Hán).
Đặc tính của Phật
Tánh là Thường, Lạc, Ngă, Tịnh.
V́ tất
cả chúng sanh đều có Phật Tánh từ vô thỉ, v́
Phật Tánh là Tâm Vương chân thật của ta, là cái Tâm
chân thật sẵn có, luôn luôn hiện hữu của ta nên
Phật Tánh chính thật là Bản Thể của Tâm
(của Phật, của ta, của tất cả chúng sinh).
Tóm lại,
Kiến Tánh là thể ngộ Phật Tánh,
chứng Đại Niết Bàn, chứng ngộ
Thường, Lạc, Ngă, Tịnh, chứng ngộ Bản
Thể của Tâm .
[b]
Định nghĩa về sự (Trạng thái Kiến
Tánh) :
Người
kiến tánh th́nh ĺnh, đột nhiên , bỗng nhiên
bước vào một trạng thái cao siêu mầu nhiệm,
trạng thái Đại Niết Bàn !
trạng thái mà Nhị Tổ
gọi là <nói không thể đến>
trạng thái mà Hư Vân
Đại Sư gọi là <sơn hà đại
địa thẩy Như Lai>
trạng thái mà Cao Phong
Đại Sư gọi là <kinh thiên động
địa>
trạng thái mà Chân Không
Đại Sư, thiền sư siêu việt của
nước ta thời Lư, gọi là :
Ví như đến
động nhà tiên
Thuốc tiên đổi
cốt tự nhiên trở về
. . .
trạng thái mà tất cả
người kiến tánh dều đồng ư : không ngôn
ngữ thế gian có thể diễn tả nổi
Trạng thái
Kiến Tánh này chính là sự kiến tánh !
[c] Không
thể định nghĩa bừa Kiến Tánh
Gần
đây, xuất hiện nhiều định nghĩa
Kiến Tánh : Kiến Tánh là x-ngộ, y-ngộ, z-ngộ
. . . Sự thực th́ không thể định nghĩa
bừa Kiến Tánh được !
Trong 1400
năm của Thiền Tông Đông Độ, "Kiến
Tánh" chỉ được dùng theo một nghĩa
một mà thôi, không thể thay đổi đuợc !
thay đổi th́ :
- sao có thể phù hợp
với chủ trương của Thiền Tông :
Kiến Tánh Thành Phật ?
- phải chú giải lại
hết các ngữ lục của các Tổ Sư, các sách
vở Thiền Tông !
Không
những thế, có thể nói định nghĩa bừa
"Kiến Tánh" là phỉ báng Như Lai !
Đạt Ma Sư Tổ mang Thiền Tông vào Đông
Độ, nhưng Đức Thế Tôn của chúng ta là
kẻ sáng lập Thiền Tông. Đức Thế Tôn đă
dùng chữ Kiến Tánh Thành Phật nhiều lần
trong Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận.
[d]
Định nghĩa tối thiểu
Định
nghĩa tối thiểu của Kiến Tánh là định
nghĩa sao để "Kiến Tánh" có thể tương
ưng với cái nghĩa tối thiểu của chữ
Thành Phật.
II) Kiến Tánh Thành Phật, Bản
Thể của Tâm
Trước
hết, Thế nào là Phật ???
Phật là
Đấng Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, . . . thần thông
diệu dụng ra vào ba cơi, tỉ triệu chánh
định, quán chiếu
dược tâm chúng sinh trong vũ trụ, giải thoát hoàn
toàn, sáng suốt hoàn toàn, viên măn Thường, Lạc, Ngă,
Tịnh . . .
Những
"đặc tính" của Phật như trên rất là
dài ḍng, ta có thể tóm tắt lại làm 2 phần :
"thể" và
"dụng". Thể là Phật Tánh, là bản
thể của tâm. Dụng, c̣n gọi là đại
cơ đại dụng, là thần thông diệu dụng,
ra vào ba cơi, tỉ triệu chánh định, quán chiếu dược tâm chúng
sinh trong vũ trụ, sáng suốt hoàn toàn. . .
Khi
Phật Kiến Tánh Thành
Phật, Phật có đầy đủ
"thể" và
"dụng".
Kiến Tánh
là chứng ngộ Bản Thể của Tâm,
nhưng đại đa số người kiến tánh
chưa có đại cơ đại dụng của
Phật.
Chỉ có
"thể" chưa có "dụng" như thế ,
có thể gọi là Thành Phật chăng ?
Lục
Tổ và Đạt Ma Sư Tổ đă trả lời,
một cách chắc nịch, rằng : Thành Phật !
III) Lời Giải Thích của Tổ
Đạt Ma
Đạt
Ma Sư Tổ giải thích tại sao Kiến Tánh
quả là Thành Phật : v́ ngoài "ông Phật Tánh"
ra không có "ông Phật" nào khác ! (Sáu cửa
Thiếu Thất).
IV) Trạng Thái của Tâm
Cuộc
đời có : người hung dữ, giảo hoạt,
tiểu nhân, người tầm thường, Thần,
Tiên, Thánh, Bồ Tát.
Làm sao có
thể phân biệt những hạng người khác nhau
trong xă hội ? Thường nguời ta quan sát hành vi,
cử chỉ, lời nói rồi phán xét. Sự xét đoán
này không chắc ăn : có kẻ đạo đức
giả có thể lừa người mấy chục
năm, cả đến một thế hệ ;
thậm chí, có thể lừa đến nhiều thế
hệ.
Bởi
v́ :
Có ai lấy thước mà
đo ḷng người ?
Sự xét
đoán người rất khó và không phải là mục
đích của bài viết này.
Sự xét
đoán th́ rất khó , thế nhưng :
kẻ tiểu nhân có ḷng
dạ của tiểu nhân
người quân tử có ḷng
dạ của người quân tử
Bồ
Tát có ḷng dạ của Bồ Tát
Cái " ḷng
dạ " này là Trạng Thái của Tâm.
Chính
Trạng Thái của Tâm của mỗi người mới
xác định được người hung dữ,
giảo hoạt, tiểu nhân, người tầm
thường, Thần, Tiên, Thánh hay Bồ Tát ; c̣n hành vi,
cử chỉ, lời nói có thể đóng kịch
được.
Nói cách khác,
Người có Trạng Thái
của Tâm của người quân tử là người quân tử
Người có Trạng Thái
của Tâm của kẻ tiểu nhân là kẻ tiểu nhân
Người có Trạng Thái
của Tâm của "thần nhân" là "thần
nhân"
Người có Trạng Thái
của Tâm của Thánh Nhân là Thánh Nhân
Người có Trạng Thái
của Tâm của Bồ Tát là Bồ Tát
Cho
đến,
Người có Trạng Thái
của Tâm của Phật là Phật
Sau đây ta
thử xem xét Trạng Thái của Tâm của một số
hạng người ; rồi sau đó thử
đặt câu hỏi : thế nào là Trạng Thái của
Tâm của Phật ?
V) Trạng Thái của Tâm của
"thần nhân"
Trạng Thái
của Tâm của "thần nhân" là trung, can, nghĩa,
khí.
Người
có trung, can, nghĩa, khí th́ khi chết sẽ thành thần.
VI) Trạng Thái của Tâm
người Quân Tử
Trạng Thái
của Tâm người Quân Tử là nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín.
Trong
Trạng Thái của Tâm này ta có thể phân biệt thể và
dụng.
Thể
của Tâm người Quân Tử là nhân, nghĩa.
Dụng
của Tâm người Quân Tử là
nghĩa, lễ, trí, tín.
Nhân là cái lư
"trời đất và vạn vật đồng
một thể".
Nghĩa là
Trạng Thái Tâm và hành động , lời nói hợp
với Nhân.
Lễ là hành
động , lời nói hợp với Nhân, Nghĩa.
Trí là
hiểu biết Nhân, Nghĩa, Lễ.
Tín là
việc làm đúng như lời nói.
Tín nằm
trong Lễ, năm đức của người Quân
Tử sự thực chỉ có 4, là nhân, nghĩa, lễ,
trí. Nhưng v́ người ở thế giới Ta Bà này gian
xảo, lật lọng quá nhiều, nên Thánh Nhân mới thêm
Tín vào các đức của người Quân Tử.
VII) Trạng Thái của Tâm Thánh Nhân Lăo
Trang
Căn
bản của Trạng Thái của Tâm Thánh Nhân là Không.
Trạng Thái
của Tâm của Thánh Nhân Lăo
Trang là Không.
Là Không, là
thanh tịnh vô vi .
Một biến
thái của Lăo Trang là phép tu tiên , trường sanh bất
tử. Những vị Tiên th́ chẳng có Trạng Thái
của Tâm là Không. Nhưng trên lư thuyết , họ vẫn
học Không, nói Không. Như Tiên Lữ Đồng Tân, khi
đắc phép phi hành, bay đến lầu chuông chùa ở
Lô Sơn, đề bài thơ :
Một ngày an nhàn thân tự tại
Sáu căn ḥa hợp báo b́nh an
Đan điền có vật quí
Ngưng vấn đạo,
Đối cảnh vô tâm, mạc vấn
thiền !
Đó
chỉ là lư thuyết thôi !
VIII) Trạng Thái của Tâm Thánh Nhân nhà
Phật
Căn
bản của Trạng Thái của Tâm Thánh Nhân là Không.
Thánh Nhân nhà
Phật, chỉ kể
người đă giải thoát, gồm hai bậc :
A La Hán
Bồ Tát
Trạng Thái
của Tâm A La Hán là Không :
là Không tham, sân si
là 4 Không :
Thân Không
Tâm Không
Tánh Không
Pháp Không
Trạng Thái
của Tâm Bồ Tát là
Không
và
Từ Bi Hỉ Xả
Phụ
Lục : Thánh Nhân và Độc thần Giáo
Chữ Thánh
Nhân trong bài này là dùng theo nghĩa thông thường ở Á
Đông đă 2000 năm nay. Xin chú thích : Thánh Nhân trong
Độc Thần Giáo ( Ki Tô Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo ) có
ư nghĩa khác hẳn.
Sự khác
biệt có thể được đơn giản hoá
như sau :
Phật Giáo, Khổng
Giáo : Thánh cao hơn Thần nhiều
Độc Thần Giáo : Thần cao hơn
Thánh nhiều
Theo Khổng
Giáo, Thánh Nhân "ngang với trời đất".
Trong Phật Giáo, Thánh Nhân là A La Hán và Bồ Tát
đều trên cả trời, thần, người ; v́
trời, thần, người là chúng sanh ở trong Tam
Giới, c̣n A La Hán và Bồ Tát đă đắc Niết Bàn,
chẳng c̣n là chúng sanh !
Theo
Độc Thần Giáo, Thánh Nhân là chúng sanh ! chỉ có
Ông Thần Duy Nhất là
độc tôn, là Ông Thần, là Duy Nhất. Ông Thần Duy
Nhất sinh ra tất cả chúng sinh . Được
phong Thánh th́ cũng thế thôi : cũng giống như
các tín đồ khác, nhờ tin Ông Thần Duy Nhất nên
được lên thiên đàng với Ông Thần Duy
Nhất !
C̣n "Thiên
Thần" chẳng phải là Thần ! Thiên Thần dịch từ
chữ Anh angel, chữ Pháp Ange, hai chữ này chẳng có
nghĩa là (Thiên) Thần . Ông Thần Duy Nhất (God, Dieu)
sang Việt Nam được gọi là Thượng
Đế, nhưng nghĩa của chữ " God, Dieu
" mới chính là Thần !
Trong
Độc Thần Giáo, Thần là tối cao.
Trong Phật
Giáo, Khổng Giáo, Thần thua xa Thánh Nhân.
Độc
Thần Giáo căn cứ vào ḷng tin, tin rằng Ông Thần
Duy Nhất sinh ra tất cả chúng sinh và phải tin
Ông Thần. Ông Thần là tối cao.
Phật Giáo,
Khổng Giáo căn cứ vào đạo đức, nên Thánh
Nhân, người đă đạt đạo đức, là
trên hết.
IX) Trạng Thái của Tâm của
Phật
Trạng Thái
của Tâm của Phật là Đại Niết Bàn
Đại
Niết Bàn là Phật Tánh
Phật Tánh
là Thường, Lạc, Ngă, Tịnh.
(Kinh Đại Bát Niết Bàn
)
Tóm lại,
Trạng Thái của Tâm của
Phật là Phật Tánh, là Thường, Lạc, Ngă,
Tịnh.
X) Kiến Tánh là Thành Phật
Kiến Tánh
là chứng ngộ Phật Tánh, chứng Đại Niết
Bàn, chứng ngộ Thường, Lạc, Ngă, Tịnh,
chứng ngộ Bản Thể của Tâm .
V́
Kiến Tánh là chứng ngộ
Phật Tánh, chứng ngộ Thường, Lạc, Ngă,
Tịnh
Nên
Kiến Tánh là chứng ngộ
Trạng Thái của Tâm của Phật.
Như trên
đă nói,
Người có Trạng Thái
của Tâm của người quân tử là người quân tử
Người có Trạng Thái
của Tâm của Thánh Nhân là Thánh Nhân
Người có Trạng Thái
của Tâm của Bồ Tát là Bồ Tát
Người có Trạng Thái
của Tâm của Phật là Phật
V́
Kiến Tánh là chứng ngộ
Trạng Thái của Tâm của Phật.
Nên
Kiến Tánh là Thành Phật.
Nhắc
lại :
Lời giải thích
Đạt Ma Sư Tổ :
ngoài "ông Phật Tánh" ra không có "ông
Phật" nào khác !
Đạt
Ma Sư Tổ nói vậy, v́ Trạng Thái của Tâm của
Phật là Phật Tánh !
XI) Kiến Tánh Thành Phật, chứng
đắc tất cả các pháp của Như Lai !
Như đă
nói trong bài Kiến Tánh Thành Phật ;
Kiến Tánh rồi, có thể
chứng đắc tất cả các pháp của Như Lai.
Chỉ có
thể nói là "có thể", c̣n rất khó ḷng mà
chứng đắc tất cả các pháp của Như
Lai :
Thời kỳ bảo
nhậm đă khoảng 20 năm
Ngàn chứng đắc cũng
hết 5 năm
Tu thần thông phải tính 10
năm
nếu
Kiến Tánh vào khoảng 40, 50 tuổi th́ tu xong ngần
ấy cũng sắp đến ngày từ trần ! Huống chi, những pháp mà Như
Lai nói ra như lá trong tay, c̣n những pháp mà Như Lai
đắc như lá trong rừng !
Muôn ngàn
chứng đắc
Khó ḷng mà
chứng đắc tất cả các pháp của Như Lai.
Nhưng muôn ngàn chứng đắc th́ có thể
được.
Sau khi
Kiến Tánh, người tu hành có thể chứng
đắc muôn ngàn chánh định, chánh quán -một cách
dễ dàng và lẹ làng. Gọi là " dễ dàng và lẹ
làng ", v́ so sánh với người thường :
người thường chứng đắc một pháp
môn đă là khó, đằng này, có thể có muôn ngàn
chứng đắc !
Tại sao
có thể chứng đắc tất cả các pháp của
Như Lai ?
Sau khi
Kiến Tánh, người tu hành có thể chứng
đắc muôn ngàn chánh định, chánh quán. Tại
sao ? Tại v́ đă chứng ngộ chứng đắc
được bản thể của Tâm, được
căn bản, được cái gốc của chứng
đắc. Tỉ như, trong tiểu thuyết vơ hiệp
thường nói, khi đă luyện thành nội công th́ vơ
nghệ sẽ cao siêu.
Sau khi Kiến
Tánh, những chứng
đắc nào gần bản thể của Tâm nhất , th́
dễ chứng đắc nhất.
XII) Chẳng có ai thành Phật !
Kiến Tánh
là Thành Phật.
Sau khi đă
nói " Kiến Tánh là Thành Phật ", th́ phải nói thêm
rằng theo nghĩa tuyệt đối, nghĩa
đầy đủ của chữ Phật th́ chẳng có
ai Thành Phật cả !
Như đă
nói trong bài " Kiến Tánh Thành Phật " :
Theo nghĩa
tuyệt đối của chữ Phật, th́
"Phật" gồm những nghĩa sau :
a) Thể :
Phật là Bản Thể
của Tâm.
Phật là Trạng Thái của
Tâm của Phật.
Nên, Kiến Tánh là Thành Phật.
b) Dụng,
c̣n gọi là đại cơ đại dụng, là
thần thông diệu dụng, ra vào ba cơi, tỉ triệu
chánh định, quán chiếu
dược tâm chúng sinh trong vũ trụ, sáng suốt hoàn
toàn. . .Người tu khó ḷng mà đạt được
hết tất cả cái Dụng này.
c) Phát minh :
Phật đây là người t́m ra, "phát minh" ra
Phật Pháp, mỗi nền văn minh nhân loại chỉ có
tối đa một vị Phật,
Theo nghĩa
tuyệt đối này, th́ chẳng có ai Thành
Phật cả. Phải chờ ngài Di Lạc ra
đời !
Phải
chờ ngài Di Lạc ra đời ! Phải chờ khi
nào Phật Pháp đă diệt ở thế gian, nhân loại
đắm ch́m trong u mê tăm tối một thời gian
dài, và rồi ngài Di Lạc ra đời, phát minh ra Phật
Pháp, Kiến Tánh Thành Phật !
( Theo sách
vở Đại Thừa : Phật Pháp c̣n tồn
tại ở thế gian khoảng 8500 năm nữa, sau
đó nhân loại đắm ch́m trong u mê tăm tối
đến hơn 8 triệu ruỡi năm, th́ ngài Di
Lạc mới ra đời ).
XIII) Pháp môn Kiến Tánh = Tu Tắt
V́
Kiến Tánh là chứng ngộ
Trạng Thái của Tâm của Phật.
Nên,
Kiến Tánh là sự chứng
ngộ cuối cùng.
Do đó,
Pháp môn Kiến Tánh = Tu Tắt
.
Hầu
hết người Kiến Tánh chưa chứng đắc
một pháp môn nào (Bát Chánh Đạo, Tứ Diệu
Đế, Tứ Thiền Bát Định và Diệt Thọ
Tưởng Định, Thất Giác Chi, Ngũ Căn
Ngũ Lực, Quán Niệm Hơi Thở, Diệt Vọng
Tưởng vv. . . ) . Chưa chứng đắc
Tứ Thiền Bát Định mà lại có thể chứng
ngộ Trạng Thái của Tâm của Phật !
Thế
mới gọi là
Thiền Đốn
Ngộ !
Thế
mới gọi là
NHẢY
Một Cái vào thẳng đất Như Lai !
(Chứng Đạo Ca)
Thế
mới gọi là Tu Tắt !
Tuy nhiên, như
đă nói ở trên :
dù Tu Tắt nhưng sau
khi Kiến Tánh, ta có thể chứng Tứ Thiền Bát
Định và Diệt Thọ Tưởng Định,
Thất Giác Chi, Ngũ Căn Ngũ Lực, Quán Niệm
Hơi Thở, Diệt Vọng Tưởng , Tâm Không , Tâm
Không Tịch, Tâm Vắng Lặng, Tâm Rỗng Rang, Tâm Tĩnh
Lặng, Tâm Rỗng Lặng vv. . . một cách dễ dàng,
nếu muốn.
Nói
"nếu muốn" bởi v́ một khi
được Thường, Lạc, Ngă, Tịnh, th́
rất nhiều người chẳng để ư ǵ
đến Tứ Thiền Bát Định , Không, Không
Tịch, Vắng Lặng, Rỗng Rang, Tĩnh Lặng,
Rỗng Lặng . . . làm
ǵ !
C̣n thần
thông, th́ nhiều thiền sư cư sĩ Kiến Tánh
chẳng nghĩ đến !
Lê Anh Chí
----------------------------------------------------------------
Kinh sách
tham khảo
Kinh :
Kinh Đại Bát Niết Bàn,
dịch giả Thích Trí Tịnh
Đại Thừa Kim Cang Kinh
Luận
Kinh Trường A Hàm, dịch giả Thích Thiện Siêu
Cuộc đời Đức
Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán
Ngữ
Lục (đến đời Lục Tổ):
Sáu cửa Thiếu Thất,
Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên
Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục
Tổ, dịch giả Thích Minh Trực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác,
dịch giả Trúc Thiên
Ngữ
Lục (sau đời Lục Tổ):
Bá Trượng Ngữ
Lục, dịch giả Thích Duy Lực
Cội nguồn truyền
thừa và phương pháp tu tŕ của thiền tông,
Nguyệt Khê
Chơn tâm trực thuyết,
Phổ Chiếu
Lâm Tế Ngữ Lục
Thiền Đốn Ngộ,
nhiều tác giả : Huyền Giác, Huệ Hải,
Thạch Thành Kim, Oánh Sơn,
Hư Vân; dịch giả Thích Thanh Từ
Tọa Thiền Luận,
Đại Giác, dịch giả Như Hạnh
Tu tâm quyết, Phổ
Chiếu
Sách :
Phật Giáo Khái Luận, Thích
Chơn Thiện,
Tổ Thiền Tông, Thích Thanh
Từ
Thiền Đạo Tu Tập,
Trương Trừng Cơ, dịch giả Như Hạnh
Triết Học Trần Thái
Tông, Nguyễn Đăng Thục
Nam
Hoa Kinh, Trang Tử, dịch giả Ngô Tất Tố
Nam
Hoa Kinh, Trang Tử, dịch giả Nguyễn Hiến Lê
Nho Giáo, Trần Trọng Kim
--------------------------------------------------------------
* Trang Chính
* M ụ c L ụ c * Đoản Luận
* Thơ *
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Bài mới * Nối kết Trang Nhà Phật Pháp Việt Nam *
------------------------------------------------------------------------------