Khéo dùng phương
tiện !
Lê Anh Chí
Dàn
Bài :
I )
Để chỉ thẳng
tâm người
II ) Lục
Tổ và Huệ Minh
III ) Tổ Hoàng
Bá và
Bùi Tướng Quốc
IV ) Thiền
Sư Sùng Phạm và Từ Đạo Hạnh
V ) Những
yếu tố chính của ‘Khéo dùng phương tiện’
VI ) Biết
cách ‘trực chỉ nhân tâm’
VII ) Yếu
tố then chốt của ‘Khéo dùng phương tiện’
I )
Để chỉ thẳng tâm người
Nguyên lư
của Thiền Tông là "Khéo dùng phương
tiện ! " Khéo dùng phương tiện để
trực chỉ nhân tâm, chân tâm.
(Xem bài " Nguyên Lư
Phương Thức Thiền Tông ")
Các vị Tổ
có khi khéo dùng phương tiện một cách rất
độc đáo. Chuyển ngữ, cử chỉ, việc
làm quái dị , làm cho đệ tử được Kiến
Tánh. Những câu chuyện Kiến Tánh này được
truyền tụng cho hậu học và gây hiểu lầm
không ít.
Vấn
đề là : Ngón tay chỉ mặt trăng !
Phương
tiện là ngón tay, mục đích (Phật Tánh ) là mặt
trăng. Người học thường lầm ngón tay là
mặt trăng . Thường lầm phương tiện và cứu
cánh.
Ở đây
sẽ nêu ra một số câu chuyện Kiến Tánh và phân
tích những yếu tố chính của ‘Khéo dùng phương
tiện’
II )
Lục Tổ và Huệ Minh
Câu chuyện
này là đề tài của bài :
__Chẳng
phải "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác"
Ở đây,
ta phân tích những yếu tố chính của ‘Khéo dùng
phương tiện’ ; tức là ta đứng trên quan
điểm của vị thầy, Lục Tổ ;
sự phân tích có hơi khác bài viết trên.
1) Câu
chuyện Lục Tổ và Huệ Minh
Khi đại chúng
biết Lục Tổ được truyền y bát, th́
có mấy trăm
người đuổi
theo để đoạt lại, trong đó có
một Tăng tên tục là Trần Huệ Minh ngày
trước làm Tứ Phẩm tướng quân, tánh t́nh thô
bạo, dẫn đầu đi trước,
đuổi kịp Lục Tổ. Lục Tổ để
y bát trên tảng đá và nói rằng:
"Y bát
là vật làm tin, há dùng sức
mà đoạt
được sao? ", rồi ẩn
ḿnh trong đám cỏ. Huệ Minh đến, muốn lấy y bát mà chẳng nhúc nhích được, liền kêu lớn lên
: "Hành giả!
Hành giả! Tôi v́ Pháp
đến, chẳng
v́ Y đến."
Lục Tổ liền
ra ngồi trên tảng đá, Huệ Minh đảnh lễ nói rằng:
Mong hành
giả v́ tôi thuyết Pháp.
Lục Tổ nói:
Ông đă
v́ Pháp mà
đến đây, th́ nên dứt
bặt trần duyên, chớ sanh một niệm, tôi sẽ v́ ông
mà thuyết.
Một hồi sau Lục
Tổ nói:
Không nghĩ thiện,
Không nghĩ
ác, đang khi ấy cái ǵ
là bản lai diện
mục của
Thượng Tọa
Minh ?
Huệ Minh ngay đó đại ngộ,
2 ) Lục
Tổ khéo dùng phương tiện
Tại sao Huệ
Minh ngộ ? - Huệ Minh ngộ khi t́m cách ( quán
chiếu ) để trả lời câu hỏi :
cái ǵ
là bản lai diện
mục của Thượng Tọa Minh ?
Xưa nay,
hầu hết thiền sinh đều tự đặt câu
hỏi :
cái ǵ
là bản lai diện
mục của
ta ?
và hầu
hết đều chẳng chứng ngộ ! ( dù mọi
người đều
biết rằng câu trả lời, về lư, là : Phật Tánh ! )
Huệ Minh
ngộ , đây là trường hợp cực kỳ
đặc biệt, và do những phương tiện
thiện xảo mà Lục Tổ đă dùng, như sau :
1) Sửa soạn tâm 1 : Huệ
Minh đến, muốn cướp y bát mà y bát
chẳng nhúc nhích được khỏi tảng đá, nên kinh
sợ : rồi
đổi ư mà một ḷng cầu pháp.
Yếu
tố này có lẽ chẳng
phải do Lục Tổ gây ra.
2) Sửa soạn tâm 2 :
Đang lắng ḷng nghe pháp, th́ Lục Tổ bảo "chớ
sanh một niệm" , Huệ Minh lại "chớ sanh một
niệm" để nghe pháp.
3) Sửa soạn tâm 3 :
Lại nghe Lục Tổ bảo " Không nghĩ thiện,
không nghĩ ác ", Huệ Minh
lại " Không nghĩ thiện, không nghĩ ác
"
4) Sửa soạn tâm 4 :
Kinh Ngạc v́ thay v́ nói pháp, Lục Tổ lại
đặt câu hỏi.
5) Chuyển ngữ biệt truyền : Từ cái Kinh
Ngạc này và từ chỗ " Không nghĩ thiện,
không nghĩ ác ", Huệ Minh
t́m cách ( quán chiếu
) để trả lời câu hỏi :
cái ǵ
là bản lai diện
mục của
Thượng Tọa
Minh ?
(Cái câu hỏi này là Chuyển
ngữ biệt truyền)
th́ bỗng
dưng chứng bản lai diện
mục !
Ta nên để ư
rằng Lục Tổ đă sửa soạn tâm cho Huệ
Minh nhiều lần trước khi cho câu chuyển ngữ biệt truyền và Chuyển
ngữ biệt truyền
ở đây là một câu hỏi (v́ mục đích bắt
người học tṛ phải quán chiếu để
trả lời , có thế th́ tâm mới chuyển , tâm có
chuyển mới có hi vọng :
__Nhảy
Một Cái vào thẳng đất Như Lai !
(Chứng
Đạo Ca)).
III )
Tổ Hoàng Bá và
Bùi Tướng Quốc
1) Câu chuyện
Tổ Hoàng Bá và
Bùi Tướng Quốc
Sư từng ẩn trong chúng chùa
Khai Nguyên ở Hồng Châu. Một hôm có thừa
tướng Bùi Hưu vào chùa
thấy bức tranh trên vách
hỏi chủ chùa :
_Đây
là ǵ?
Chủ
chùa đáp :
_Chân
dung của cao tăng.
Hưu nói
:
_Chân
dung th́ thấy rồi, c̣n cao tăng
ở đâu?
Chủ
chùa không trả lời được.
Hưu hỏi
:
_Ở
đây có thiền giả nào không?
Đáp :
_Gần
đây có một Tăng đến
chùa công quả giống như thiền giả.
Hưu liền
xin gặp và nói rằng
:
_Hưu
vừa có một câu hỏi
mà chưa được ai trả lời, xin thượng nhân đáp dùm.
Sư nói :
_Xin
thừa tướng
cứ hỏi.
Hưu hỏi
lại câu hỏi trước.
Sư lớn tiếng gọi :
_Bùi
Hưu!
Hưu :
_Dạ.
Sư nói :
_Ở
đâu?
Hưu ngay
đó ngộ ư chỉ như được hạt châu quư, liền
mời Sư về dinh rồi đảnh lễ xin làm đệ
tử.
2) Tóat
yếu :
Thừa
tướng Bùi Hưu hỏi :
_Chân
dung th́ thấy rồi, c̣n cao tăng
ở đâu?
Sư (Hoàng Bá) lớn
tiếng gọi :
_Bùi
Hưu!
Hưu :
_Dạ.
Sư nói :
_Ở
đâu?
3) Tổ Hoàng
Bá khéo dùng phương tiện :
a) Chuyển ngữ biệt
truyền
Thừa
tướng Bùi Hưu hỏi : " cao tăng ở đâu ?
"
Sư (Hoàng Bá) trả lời " Bùi Hưu ở đâu ?
"
Đây là
chuyển ngữ biệt truyền ! chuyển ngữ
biệt truyền để trực chỉ chân tâm.
b) Chuyển
ngữ ngắt 2
Một
điều rất cần lưu ư là : Sư ngắt câu
trả lời làm 2 đoạn :
Đoạn 1 : Sư (Hoàng Bá) lớn
tiếng gọi :
" Bùi
Hưu! "
Đoạn 2 : Sư nói : " Ở đâu
? "
Ở đây
là một câu hỏi, nhưng bảo là ‘Sư nói’ v́ Bùi Tướng
Quốc đang trông chờ một câu nói ! Lục Tổ đă dùng cái ‘mẹo‘
này với Huệ Minh : thay v́ nói pháp, Lục Tổ
lại hỏi Huệ
Minh : cái ǵ là bản
lai diện mục của Thượng Tọa Minh ?
c) Bất
Ngờ
Cũng như
Lục Tổ, Tổ Hoàng Bá trong cả 2 giai đoạn ( mỗi giai
đoạn chỉ có 2 chữ ! ) đều dùng yếu tố "Bất Ngờ" .
Tất cả đều có mục đích để làm cho
người học được Ngộ !
Những yếu
tố a), b), c) hợp
lại thành :
"Khéo
dùng phương tiện ! ". Khéo dùng phương
tiện để trực chỉ chân tâm.
[ Và
phương tiện đă khéo dùng : Bùi Tướng Quốc đă gặp minh sư, Tổ Hoàng Bá thu được
đồ đệ quí, thầy tṛ vui đạo, , thiên
hạ thái b́nh, nhân loại âu ca . . .
( Ha ! )]
IV )
Thiền Sư Sùng Phạm và Từ Đạo Hạnh
1) Câu
chuyện Thiền Sư Sùng Phạm và Từ Đạo
Hạnh
Từ
Đạo Hạnh sau khi báo được thù cha, th́ tinh
tấn tu hành, nhưng chưa ngộ. Một hôm, t́m
đến yết kiến Thiền Sư Sùng Phạm ở
chùa Pháp Vân. [Thiền Sư Sùng Phạm là thuôc đời
thứ 11 của ḍng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi,
ở nước ta]
Từ Đạo Hạnh hỏi
: " Thế
nào là Chân Tâm ?
"
Sư (Sùng Phạm) trả
lời " Cái ǵ chẳng phải là Chân Tâm ? "
Từ
Đạo Hạnh ngộ.
2)
Thiền Sư Sùng Phạm khéo dùng phương tiện
a) Chuyển ngữ biệt
truyền
Từ Đạo Hạnh hỏi
: " Thế
nào là Chân Tâm ?
"
Sư (Sùng Phạm) trả
lời " Cái ǵ chẳng phải là Chân Tâm ? "
Đây là
chuyển ngữ biệt truyền !
b) Một câu hỏi
Một
điều rất cần lưu ư là : câu chuyển
ngữ biệt truyền này là một câu hỏi ; mục đích để
người học phải t́m, quán chiếu. Có thế th́
tâm mới chuyển, tâm có chuyển mới có hi
vọng :
__Nhảy
Một Cái vào thẳng đất Như Lai !
(Chứng
Đạo Ca)
câu hỏi bao hàm yếu tố Bất
Ngờ : Từ Đạo Hạnh trông chờ một
câu trả lời.
c) Lư luân
đảo ngược
Cũng
đáng lưu ư : Từ Đạo Hạnh hỏi Chân
Tâm, Thiền Sư Sùng Phạm lại chỉ ‘Không Chân Tâm’
Đây là lư luân đảo ngược, thường dùng
trong Toán Học :
_muốn
chứng minh : A == > B
_th́ ta
chứng minh : Không B == > Không A
Một
yếu tố của ‘Khéo dùng
phương tiện’, các thiền sư khác cũng có
dùng !
V )
Những yếu tố chính của ‘Khéo dùng phương
tiện’
Những
yếu tố chính của ‘Khéo dùng phương tiện’, qua
những thí dụ trên :
a) Câu chuyển ngữ biệt
truyền
để ‘trực chỉ nhân
tâm’ hoặc ‘trực chỉ chân tâm’
b) Một
câu hỏi
câu chuyển ngữ biệt
truyền thường là một câu hỏi, câu hỏi v́ mục
đích bắt người học tṛ phải quán chiếu
để trả lời , có thế th́ tâm mới
chuyển , mới NHẢY Một
Cái !
c) Bất
Ngờ
Yếu
tố chính của những yếu tố trên chính là câu
chuyển ngữ biệt truyền . Có câu chuyển
ngữ biệt truyền hợp căn cơ
người học tṛ, th́ mới đưa đến
sự Kiến Tánh. Cũng có trường hợp những
người tu đă ngộ, khi được câu
chuyển ngữ biệt truyền , mà không cần :
sửa soạn tâm, bất ngờ, một câu hỏi, lư luân
đảo ngược , vị thầy lớn tiếng v v
VI )
Biết cách ‘trực chỉ nhân tâm’
Thiền
Sư phải biết cách ‘trực chỉ nhân tâm’.
Nếu không
biết rơ căn cơ của người học tṛ,
nếu không có tha tâm thông, th́ Thiền sư phải đóan
(căn cơ của người học tṛ) để cho
câu chuyển ngữ.
Nếu
đoán th́ :
a) không
chắc ăn
b) tuy không
chắc ăn, nhưng chẳng phải la lời bá
láp ; vẫn là chuyển ngữ : các Thiền Sư
‘biết’ rằng chuyển
ngữ họ dùng có thể đưa đến sự
Ngộ.
( Nếu mà
có sự ’chắc ăn’ th́ Phật đă truyền pháp
đó rồi)
Trong 3 thí
dụ đă nêu ra ở đây, các Thiền Sư có lẽ
đều phải đóan (căn cơ của
người học tṛ) :
_Lục
Tổ đoán v́ ngài đâu biết Huệ Minh : trong 8
tháng ở chùa , ngài chỉ giă gạo.
_Hoàng Bá
đoán, v́ đó là lần đầu tiên ngài gặp Bùi
Hưu.
_Sùng Phạm
đoán, cùng một lư do.
Thí dụ
của sự ‘không chắc ăn ’ : Đường gậy Càn Phong :
Nhà sư hỏi Tổ Càn Phong : "Một đường vào Niết Bàn của mười phương
Chư Phật, chưa
rơ đầu
đường ở
chỗ nào ?"
Tổ
Phong lấy cây gậy vạch một nét, bảo : "Ở trong ấy".
Nhà sư xin Tổ Vân
Môn chỉ thêm.
Tổ
Môn cầm cây quạt đưa lên nói : "Cây quạt nhảy tót lên
tầng Trời Thứ Ba Mươi
Ba, xây đắp các lỗ
mũi của Đế Thích. Đánh con cá Lư Ngư ở
biển Đông một gậy, mưa như cầm chậu đổ ! Hiểu chăng ? Hiểu chăng ?" (*)
-----------
Câu chuyện
cho thấy rằng : ‘nhà sư’ không những chẳng
ngộ, mà chẳng hiểu ǵ hết ! không chắc
ăn tí nào !
Chính v́ không
chắc ăn, nên rất nhiều thiền sư lấy
sở ngộ làm chỗ sở trường, chỉ truyền
cái ḿnh đă ngộ mà thôi ! (Như thế chỉ
truyền tâm, ấn tâm được cho những
người cùng căn cơ như ḿnh).
VII )
Yếu tố then chốt của ‘Khéo dùng phương
tiện’
Ngoài yếu
tố trên (Biết cách ‘trực chỉ nhân tâm’), yếu
tố then chốt của ‘Khéo dùng phương tiện’
dĩ nhiên là căn cơ và khả năng của
người học tṛ !
Đây là
sự đối đăi của ‘khéo dùng phương
tiện’ :
_Thiền
sư phải biết cách ‘trực chỉ nhân tâm’
để ra được câu chuyển ngữ biệt
truyền !
_Người học
phải biết cách áp dụng
được câu chuyển
ngữ này vào tâm ḿnh !
Xem bài " Đốn
Ngộ cũng là tu "
-----------------------------------------
Chú thích :
(*) Chuyện t́m thấy
trong Kinh THỦ
LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG, quyển
V, chương 2, Việt dịch :
Nhẫn Tế THIỀN SƯ, . Ngài Nhẫn Tế sáng
lập ra Tây Tạng Tự (B́nh Dương) , chùa nguyên là
một đạo tràng của Bửu Sơn Kỳ
Hương, Sư đổi tên chùa khi được
mời làm trụ tŕ. Tây Tạng Tự đặc biệt
là : vừa là Mật Tông vừa là Thiền Tông.
* Lê Anh Chí *.
----------------------
Kinh sách
tham khảo
Kinh :
Kinh Đại Bát Niết Bàn,
dịch giả Thích Trí Tịnh
Đại Thừa Kim Cang Kinh
Luận
Cuộc đời Đức
Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán
Kinh Kim Cang
Kinh Lăng Nghiêm, dịch giả Trí Độ và Tuệ Quang
Kinh THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG
THÔNG, dịch giả Nhẫn Tế
Kinh Trường A Hàm, dịch giả Thích Thiện Siêu
Kinh
Vô Ngă Tướng, dịch giả Phạm Kim Khánh
Ngữ
Lục (đến đời Lục Tổ):
Sáu cửa Thiếu Thất,
Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên
Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục
Tổ, dịch giả Thích Duy Lực
Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục
Tổ, dịch giả Thích Minh Trực
Chứng Đạo Ca, Huyền Giác,
dịch giả Trúc Thiên
Ngữ
Lục (sau đời Lục Tổ):
Bá Trượng Ngữ
Lục, dịch giả Thích Duy Lực
Truyền Tâm Pháp Yếu, Hoàng
Bá, dịch giả Thích Duy Lực
Cội nguồn truyền
thừa và phương pháp tu tŕ của thiền tông,
Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền
Chơn tâm trực thuyết,
Phổ Chiếu
Lâm Tế Ngữ Lục
Thiền Đốn Ngộ,
nhiều tác giả : Huyền Giác, Huệ Hải,
Thạch Thành Kim, Oánh Sơn,
Hư Vân; dịch giả Thích Thanh Từ
Tọa Thiền Luận,
Đại Giác, dịch giả Như Hạnh
Tu tâm quyết, Phổ
Chiếu
Sách :
Tứ Diệu Đế, Thích Thiện Hoa
Thiền Sư Việt Nam,
Thích Thanh Từ
Tổ Thiền Tông, Thích Thanh
Từ
Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com
--------------------------------------------------------------
* Trang Chính
* M ụ c L ụ c * Đoản Luận
* Thơ *
------------------------------------------------------------------------------
* Hộp Thư * Bài mới * Nối kết Trang Nhà Phật
Pháp Việt Nam *
------------------------------------------------------------------------------