Khi chưa Kiến Tánh th́ Vọng và Chân đều là . . . Vọng !

 

                        Lê Anh Chí

 

 

Dàn Bài :

I ) Kinh Lăng Nghiêm : " Vọng và Chân đều là Vọng  "

II ) Khi chưa thấy tánh th́ Vọng và Chân đều là . . . Vọng !

III ) Trạng thái Kiến Tánh : Tất cả là Chân

IV ) Kiến Tánh rồi : Vọng là Vọng, Chân là Chân

V ) Kiến Tánh rồi : Vọng có thể biến thành Chân

VI ) Thần thông và diệu dụng, gánh nước cùng bửa củi !

VII ) Vẫn phải dùng Vọng Tâm

 

 

I ) Kinh Lăng Nghiêm : " Vọng và Chân đều là Vọng  "

 

Trong hội Lăng Nghiêm, Phật có nói : " Vọng và Chân đều là Vọng  ".

Câu kệ này ở phần đầu kinh, khi Phật giảng cho ông A Nan về vọng tâm, về tri kiến của chúng sinh :

        Nói  Vọng để chỉ rơ Chân 

        Vọng và Chân đều là Vọng 

Câu kệ này rất dễ hiểu : tri kiến của chúng sinh là vọng, được Phật chỉ cho biết vọng biết chân, rồi nhờ đối đăi (Nói  Vọng để chỉ rơ Chân), nên xác định được Chân. Nhưng cái Chân, mà tri kiến vọng của chúng sinh xác định được vẫn là vọng, v́ chỉ do đối đăi, thí dụ nên xác định.

Nói rơ hơn,  . . .

 

 

II ) Khi chưa thấy tánh th́ Vọng và Chân đều là . . . Vọng !

 

Khi chưa thấy tánh th́ Vọng và Chân đều là . . . Vọng ! Bởi v́, khi chưa thấy tánh th́ Tâm của ta là Vọng. Thực trạng của (Vọng) Tâm là Vô Ngă ! Chẳng có Ngă ! chẳng phải là ta ! ( Xem bài "Chẳng phải Vô Ngă, chẳng phải Đại Ngă ")

Mà một khi Tâm là Vọng th́ vạn cảnh đều là . . . Vọng ! Như câu thơ nổi tiếng của Nguyễn Du :

        Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ !

Tâm buồn cảnh buồn, tâm vui cảnh vui,  một khi Tâm là Vọng th́ vạn cảnh đều là . . . Vọng , sự sự đều là Vọng .

Kiến Tánh rồi , th́ mới thấy Chân. Bởi v́ :

        Kiến Tánh là chứng ngộ Phật Tánh,

                        là chứng ngộ Đại Niết Bàn,

                        là chứng ngộ Thường, Lạc, Ngă, Tịnh,

                        là chứng ngộ Bản Thể của Tâm

                        là chứng ngộ Chân Tâm

                        là chứng ngộ Chân

 

Chính đây là nguyên lư sống c̣n của Thiền Tông : Kiến Tánh rồi , th́ mới thấy Chân, biết Chân, sống với Chân.

 

 

III ) Trạng thái Kiến Tánh : Tất cả là Chân

 

Kiến Tánh là chứng ngộ Phật Tánh,

                        là chứng ngộ Thường, Lạc, Ngă, Tịnh,

                        là chứng ngộ Chân

một khi Tâm là Chân th́ vạn cảnh đều là Chân, sự sự đều là Chân.

V́ thế, ở Trạng thái Kiến Tánh : Tất cả là Chân.

 

 

IV ) Kiến Tánh rồi : Vọng là Vọng, Chân là Chân

 

Khi chưa thấy tánh th́ Vọng và Chân đều là Vọng 

Trạng thái Kiến Tánh : Tất cả là Chân.

Kiến Tánh rồi , th́ mới thật sự thấy Chân , mới thật sự biết thế nào là Chân.

Kiến Tánh rồi , mới thật sự biết thế nào là Chân, biết thế nào là Vọng.

Kiến Tánh rồi : Vọng là Vọng, Chân là Chân.

 

 

V ) Kiến Tánh rồi : Vọng có thể biến thành Chân

 

Khi ở trạng thái Kiến Tánh : Tất cả là Chân, Tất cả là Thường, Lạc, Ngă, Tịnh.

Trạng thái Kiến Tánh này thường hằng được một thời gian, rồi sau đó vọng tưởng có thể trở lại.

Tại sao vọng tưởng có thể trở lại ? - Đây là thói quen b́nh sinh, tập khí từ vô thủy

V́ khi chưa thấy tánh  Vọng và Chân đều là Vọng :  b́nh thường đi tới đi lui, làm việc, ta thường suy nghĩ vẫn vơ, nói vẫn vơ, thường sống trong Vọng. Sau khi Kiến Tánh , thói quen, phản xạ vẫn c̣n đó : như khi ra ngoài đường , gặp người quen chào hỏi "Mạnh giỏi không ?" chẳng hạn, th́ khi đang tay bắt mặt mừng đó, cái Vọng đă về ! Thói quen b́nh sinh, tập khí từ vô thủy mà thôi !

 

Bởi vậy, sau khi Kiến Tánh th́ bảo nhậm :

        Làm sao để đi đứng nằm ngồi đều thấy tánh.

Tức là

        biến những vọng tưởng, thói quen b́nh sinh, tập khí đó thành đại viên cảnh trí.

Sau khi Kiến Tánh, dùng sự Kiến Tánh của ḿnh , để biến vọng tưởng, thói quen, tập khí  thành Chân.

Kiến Tánh rồi : Vọng có thể biến thành Chân !

 

 

VI ) Thần thông và diệu dụng, gánh nước cùng bửa củi !

 

Đi đứng nằm ngồi đều thấy tánh ! Việc bảo nhậm này, người ngoài nh́n vào thấy như thời gian luống uổng trôi qua ! (Bởi v́ cũng chỉ những hành động tới lui như bao kẻ phàm phu). Nhưng không phải thế, sự thực th́ :

        Đi đứng nằm ngồi, ngắm cảnh mà lại thấy như ở Cực Lạc thế giới

        Hoa tay múa chân đó, mà lại thấy như đại cơ đại dụng, như sử dụng thần thông !

V́ thấy tánh !

 

Bàng Cư Sĩ (Bàng Long Uẩn) nói :

        Thần thông và diệu dụng

        Gánh nước cùng bửa củi !

đây là diễn tả cái thấy, cái trạng thái bảo nhậm :

                đi đứng nằm ngồi đều thấy tánh

                gánh nước cùng bửa củi vẫn thấy tánh

Trạng thái bảo nhậm này cao siêu mầu nhiệm như thần thông và diệu dụng !

Chớ c̣n :

        gánh nước là gánh nước,

        bửa củi là bửa củi 

chẳng phải là thần thông .

Chỉ khác ở Tâm của người gánh nước bửa củi :

        Cũng th́ bửa củi , mà Tâm của người Kiến Tánh th́ thấy khác : một nhát búa đă chém xuống, thấy như càn khôn hợp rồi lại chia, thấy như chấn động sơn hà đại địa !

        Nên gọi là : thần thông và diệu dụng !

 

 

VII ) Vẫn phải dùng Vọng Tâm

 

Trong hội Lăng Nghiêm, Phật bảo ông A Nan: " Chẳng phải tôi khuyên ông đừng chấp cái đó làm tâm . . .".

Câu này ở phần đầu kinh, khi Phật giảng cho ông A Nan về vọng tâm, về tri kiến của chúng sinh ; trước đó ông A Nan đă định nghĩa tâm : " cái suy nghĩ đó là tâm của tôi" , và Phật đă giảng đó chẳng phải là tâm thật (mà chỉ là " tưởng tượng những tướng giả dối của tiền trần", chỉ là " h́nh ảnh của phân biệt pháp trần").

Trước những lư luận của Phật, ông A Nan rất hoang mang không rơ đâu là tâm ; v́ thế, Phật bảo ông A Nan: " Chẳng phải tôi khuyên ông đừng chấp cái đó làm tâm . . .". Tức là : phải dùng vọng tâm mà tu hành.

(Trong hội Lăng Nghiêm, ở giai đoạn này, ông A Nan chưa hiểu, chưa phân biệt được Vọng Tâm và Chân Tâm).

Trong Thiền Tông, ta cũng phải dùng vọng tâm mà tu hành, để Kiến Tánh.

Nhưng ta cần luôn nhớ rằng tâm đó là Vọng-tâm , là Vô Ngă, là Không, chẳng phải là tâm thật ( xem bài " Chẳng phải Vô Ngă, chẳng phải Đại Ngă  ") ; mà cần phải đi đến sự Kiến Tánh.

Kiến Tánh rồi, th́ mới là Chân !

   

-------------------------------------

Kinh sách tham khảo

Kinh :

        Kinh Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh

        Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận

        Cuộc đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán

        Kinh Kim Cang

        Kinh Lăng Nghiêm,  dịch giả   Trí Độ và Tuệ Quang

        Kinh Trường A Hàm,  dịch giả   Thích Thiện Siêu

        Kinh Ngăớng,  dịch giả Phạm Kim Khánh

Ngữ Lục (đến đời Lục Tổ):

        Sáu cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên

        Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh Trực

        Chứng Đạo Ca, Huyền Giác dịch giả Trúc Thiên

Ngữ Lục (sau đời Lục Tổ):

        Bá Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy Lực

        Cội nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của thiền tông, Nguyệt Khê

        Chơn tâm trực thuyết, Phổ Chiếu

        Lâm Tế Ngữ Lục

 

Lê Anh Chí.

        --------------------------------------------------------------

        * Trang Chính * M ụ c  L ụ c  * Đoản Luận * Thơ *

------------------------------------------------------------------------------

* Hộp Thư * Bài mới * Nối kết Trang Nhà Phật Pháp Việt Nam *

------------------------------------------------------------------------------

              Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com