Ngũ Tổ Kiến Tánh khi nào và do đâu ?

 

                           Lê Anh Chí

__________________________________________

 

Dàn Bài :

I) Ngũ Tổ dĩ nhiên đă Kiến Tánh

II) Luận Tối Thượng Thừa : Đệ tử . . .

III) Ngũ Tổ đă Kiến Tánh trước khi được truyền ngôi Tổ

IV) Ngũ Tổ đă Kiến Tánh bởi Kinh Kim Cang và . . .

V) Ngũ Tổ đă Kiến Tánh khi c̣n là sa di ?

VI) Ngũ Tổ đă Kiến Tánh khi c̣n là Tài Ṭng Đạo Giả ?

Tài Ṭng Đạo Giả

Cậu bé trai của cô Chu Phụng Thư

Ngũ Tổ là thân sau của Tài Ṭng Đạo Giả

__________________________________________

 

 

I) Ngũ Tổ dĩ nhiên đă Kiến Tánh

 

Ngũ Tổ dĩ nhiên đă Kiến Tánh 

Năm vị Tổ chính thức của Pháp môn Kiến Tánh th́ bắt buộc đă Kiến Tánh !

Từ Tổ Ca Diếp đến Ngũ Tổ , chư Tổ bao giờ cũng lựa trong các đệ tử đă Kiến Tánh một người để truyền ngôi Tổ.

 

 

II) Luận Tối Thượng Thừa : Đệ tử . . .

 

Sở dĩ người ta đặt vấn đề nghi vấn về sự Kiến Tánh của Ngũ Tổ  , là v́ câu sau đây trong Luận Tối Thượng Thừa (của Ngũ Tổ )  :

"... Đệ tử (Luận chủ tự xưng) từ trước đến đây biên tập luận nầy thẳng do tín tâm y văn nhận nghĩa nói như thế, thật không phải rơ ràng chứng biết. "

 

Câu này thật là quái dị !

 

1) Ta nên đặt câu hỏi :

_Một vị Tổ có thể tự xưng là " Đệ tử " hay không ?

Trả lời :

_Chắc chắn là không !

 

Như vậy là ta đă giải quyết vấn đề : khi Tổ viết câu này, trong đó có " thật không phải rơ ràng chứng biết " ,th́ khi đó ngài chưa được truyền ngôi Tổ.

 

 

2) Ngũ Tổ Luận Tối Thượng Thừa khi nào ?

 

TD : Ta thường nói Ḥa thượng Thích Thanh Từ dịch cuốn Thiền Đốn Ngộ, nhưng cuốn này ra đời đầu thập niên 70, khi ấy ông TTT đâu phải là Ḥa thượng  ? Khi ấy , ông TTT , theo tôi biết, chưa là Thượng Tọa !

 

Bởi vậy , nói Ngũ Tổ viết Luận Tối Thượng Thừa th́ e rằng không đúng, nên nói rằng ông sư Hoàng Nhẫn viết Luận Tối Thượng Thừa !

 

Như trên đă viết, có lẽ Ngũ Tổ bắt đầu viết Luận Tối Thượng Thừa trong khoảng ba mươi mấy năm trước kh́ được truyền ngôi Tổ,

 

3) Ngoài ra :

_từ trước đến đây biên tập luận nầy

cho thấy là bài luận được viết trong nhiều thời kỳ.

Một câu hỏi nữa : bài luận không dài, sao lại viết qua nhiều giai đoạn ?

Có lẽ : bài luận rất dài, rồi sau bị thất lạc, người ta chỉ c̣n vá víu lại chút đỉnh đó thôi !

Có lẽ đây không phải là một bài luận mà là một tập luận !

 

4) Nhiều thời kỳ

 

Cùng một đoạn văn, câu đầu :

_Đệ tử (Luận chủ tự xưng) từ trước đến đây biên tập luận nầy thẳng do tín tâm y văn nhận nghĩa nói như thế, thật không phải rơ ràng chứng biết.

là câu của người mới tu trong chùa.

Nhưng câu cuối :

_Người nghe cố gắng sau nầy sẽ thành Phật, nguyện hiện tiền độ môn đồ của tôi.

lại là câu của một vị Tổ ("độ môn đồ của tôi ")

 

5) C̣n là sa di ?

Chính v́ trong câu này :

"... Đệ tử (Luận chủ tự xưng) từ trước đến đây biên tập luận nầy . . ."

Luận chủ tự xưng là đệ tử, nên ta có thể đoán rằng câu này được viết khi Ngũ Tổ c̣n là sa di !

 

 

III) Ngũ Tổ đă Kiến Tánh trước khi được truyền ngôi Tổ

 

Ngũ Tổ đă Kiến Tánh trước khi được truyền ngôi Tổ. Đây là việc dĩ nhiên , tuy vậy sau đây, ghi lại những bằng chứng :

 

1) Một người khi được truyền ngôi Tổ th́ chắc chắn đă Kiến Tánh ! ( có nhiều trường hợp, Kiến Tánh đă nhiều năm)

Ngũ Tổ xuất gia năm 7 tuổi, Ba mươi mấy năm sau th́ được truyền ngôi Tổ.

 

2) Lúc Huệ Năng ở chùa Ngũ Tổ , những lời Ngũ Tổ dạy Thần Tú Huệ Năng cho thấy rơ ràng đó là lời của người đă Kiến Tánh :

"người Kiến Tánh th́ khi ra trận cũng Kiến Tánh "

"Tổ nói (với Thần Tú) : Ông làm bài kệ ấy, tỏ ra chưa thấy bổn tánh.  Ông mới tới ngoài thềm cửa, chưa vào trong nhà.  Cứ như chỗ thấy hiểu ấy mà t́m đạo Vô Thượng Bồ Đề th́ rơ ràng không thể được.  Theo đạo Vô Thượng Bồ Đề, hễ khi nghe nói pháp rồi, liền phải biết Bổn Tâm và thấy Bổn Tánh của ḿnh.  Tâm của ḿnh chẳng sanh chẳng diệt, trong cả thảy thời gian, niệm niệm ḿnh thấy tánh.  Đối với muôn pháp, tâm ḿnh suốt thông, không ngưng trệ.  Một pháp, ḿnh thấy hiểu chơn tướng.  Cả thảy các pháp, ḿnh đều hiểu thấu chơn tướng.  Đối với muôn cảnh, tâm ḿnh như như.  Tâm như như tức là tâm chơn thật.  Thấy như thế, tức là thấy Vô Thượng Bồ Đề của ḿnh "

 

3) Ngũ Tổ Luận Tối Thượng Thừa khi nào ?

_Như trên có viết, ta có thể đoán rằng Ngũ Tổ bắt đầu viết luận này khi chưa được truyền ngôi Tổ, có lẽ khi Ngũ Tổ c̣n là sa di !

 

4) phần kết của bài luận (tập luận ?):

_Nếu có người y văn tu hành th́ hiện đời thành Phật. Nếu tôi nói dối ông th́ đời sau sẽ đọa trong mười tám địa ngục, chỉ trời đất mà thề vậy.

Quả quyết như vậy, th́ đă chứng nghiệm, đă Kiến Tánh !

 

5) Ngũ Tổ là tổ sư của pháp môn Kim Cang Công Truyền ( dùng kinh Kim Cang để Kiến Tánh )

Phải  Kiến Tánh rồi th́ mới dạy được điều này !

 

6) Ngũ Tổ chỉ dẫn cho Huệ An được Kiến Tánh

Phải là người đă Kiến Tánh mới chỉ dẫn cho Huệ An được Kiến Tánh !

Một bằng chứng của "chỉ dẫn cho Huệ An được Kiến Tánh"ngài Huệ An hơn thầy ( Ngũ Tổ ) đến hai chục tuổi ! [ Huệ An là một du tăng, một hôm yết kiến Ngũ tổ được chỉ điểm nên Kiến Tánh ; do đó tôn Tổ làm thầy]

 

 

IV) Ngũ Tổ đă Kiến Tánh bởi Kinh Kim Cang và . . .

 

A) Ta có thể quả quyết rằng Ngũ Tổ đă Kiến Tánh bởi Kinh Kim Cang :

1) Các thiền sư thường dùng sở ngộ làm sở trường (dễ hiểu thôi). Dạy người Kiến Tánh bằng cách luyện Kinh Kim Cang, vậy Ngũ Tổ cũng Kiến Tánh bởi Kinh Kim Cang !

2) Nếu Ngũ Tổ không Kiến Tánh bởi Kinh Kim Cang  tất không dám dạy pháp Kim Cang Công Truyền

3) Ta c̣n có thể nói rằng  Ngũ Tổ Kiến Tánh bởi pháp "Không trụ vào đâu cả !" :

a) Phật nói trong Kinh Kim Cang :"Không trụ vào đâu cả ! " th́ Kiến Tánh tức th́ !

Xem bài ["Không trụ vào đâu cả ! " th́ Kiến Tánh tức th́ ! ]

Bài viết trên là kiến giải của tôi ; nhưng tôi nghĩ rằng Ngũ Tổ đă khám phá như vậy, đă Kiến Tánh nhờ đó và dạy người Kiến Tánh bằng cách luyện Kinh Kim Cang !

b) Theo tôi thấy th́ trong Kinh Kim Cang chỉ có câu :"Không trụ vào đâu cả ! " là câu chuyển ngữ để Kiến Tánh!

c) Phật nói trong Kinh Kim Cang :"Không trụ vào đâu cả ! " th́ Kiến Tánh . Và"Không trụ vào đâu cả ! " là câu độc nhất mà Phật nói như thế (trong Kinh Kim Cang)

d) Ngũ Tổ dạy trong Luận Tối Thượng Thừa :

_Niệm niệm chớ trụ (th́ Kiến Tánh)

Câu trên là "biến thế" của"Không trụ vào đâu cả ! " !

 

B) Ngũ Tổ bắt đầu truyền bá pháp Kim Cang Công Truyền khi nào ?

Ta có thể nói rằng: Ngũ Tổ bắt đầu truyền bá pháp Kim Cang Công Truyền ngay sau khi được truyền ngôi Tổ.

 

Trích Kinh Pháp Bảo Đàn :

{{ . . . thấy một người khách tụng kinh.  Huệ Năng này nghe qua, tâm liền mở mang tỏ sáng, mới hỏi khách tụng kinh ǵ?  Khách nói là Kinh Kim Cang.

 Hỏi: Ở đâu có Kinh Điển này?

Khách nói: Tôi từ Chùa Đông Thiền, huyện Huỳnh Mai Kỳ Châu đến. Chùa ấy do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại Sư chủ hoá, môn đồ hơn ngàn người, tôi đến đó lễ bái lănh thọ Kinh này. Ngũ Tổ thường khuyên Tăng Tục tŕ Kinh Kim Cang th́ được kiến tánh, trực liễu thành Phật. }}

 

Đoạn trên, Khách nói " Chùa Đông Thiền ". Ta biết rằng thời đó Thiền Tông là Đông Sơn pháp môn ( v́ Ngũ Tổ tọa lạc ở Đông Sơn ), do đó , đọc đoạn trên, ta thường nghĩ rằng" Chùa Đông Thiền " là " Chùa Đông Sơn " . Không phải thế, " Chùa Đông Thiền " ở phía Tây Huỳnh Mai !

 

Trích Cao Tăng Dị Truyện :

[[Chùa Ngũ Tổ ở Đông Sơn, cách huyện Hoàng Mai 16 km về phía Bắc, nên có tên chùa là Đông Sơn. Theo lời ghi chép th́ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, bảy tuổi ở Tây Sơn, theo Tứ Tổ học thiền. Sau khi đắc pháp, bắt đầu giảng kinh thuyết pháp ở Đông Thiền Tự, phía Tây thành Hoàng Mai, sau v́ đạo tràng nhỏ hẹp, bèn xây cất chùa Đông Sơn ở Đông Sơn, từ đây pháp tịch hưng thạnh, người cầu pháp tấp nập trên đường. Chùa Ngũ Tổ Đông Sơn, xây dựng vào đời Đường, niên hiệu Hàm Hanh (670-673), đến đời Minh, niên hiệu Vạn Lịch (1573-1619) được xây cất lại. vào đời Thanh, niên hiệu Hàm Phong (1851-1886), bị binh lửa thiêu hủy, lại trùng tu lần nữa. ]]

 

Xem thế, ngay khi được truyền ngôi Tổ, bắt đầu giảng kinh thuyết pháp ở Đông Thiền Tự, phía Tây thành Hoàng Mai. ( có lẽ đây là chùa của Tứ Tổ, Ngũ Tổ chỉ đổi tên lại ?) , Ngũ Tổ đă truyền bá ngay pháp Kim Cang Công Truyền

Như vậy, Ngũ Tổ Kiến Tánh bởi Kinh Kim Cang đă (khá) lâu, vừa khi được ’độc lập’ liền truyền pháp này.

Sao gọi là"Chùa Đông Thiền" ? _Đông đây chẳng phải là Đông-sơn ; vậy " Chùa Đông Thiền " là " Chùa Thiền Tông Đông Độ ". Đặt tên "Chùa Đông Thiền". Ngũ Tổ có ngụ ư nói pháp thiền của ngài là đặc biệt Thiền Tông Đông Độ . Mà sự thực là vậy !

 

 

V) Ngũ Tổ đă Kiến Tánh khi c̣n là sa di ?

 

Chính v́ trong câu này :

"... Đệ tử (Luận chủ tự xưng) từ trước đến đây biên tập luận nầy . . ."

luận chủ tự xưng là đệ tử, nên tôi đoán rằng câu này có thể  được viết khi Ngũ Tổ c̣n là sa di !

Và sa di Hoằng Nhẫn đă khiêm tốn nói " thật không phải rơ ràng chứng biết " chứ chính ra th́ sa di đă Kiến Tánh. Ta nên nhớ rằng khiêm tốn như vậy không phải là Vọng Ngữ. Không chứng nói rằng chứng là Đại Vọng Ngữ. Trái lại, người tu thường được khuyên không nên nói ra ngay những điều đă chứng đắc, người Kiến Tánh nên nói ra khoảng vài mươi năm sau, khi thấy cần truyền bá pháp môn. Vả lại, nói giảm bớt điều ḿnh chứng là ‘chắc  ăn‘ , khỏi phạm tội Đại Vọng Ngữ. (Người chân tu sợ nhất là Đại Vọng Ngữ. (Không chứng nói rằng chứng)).

 

V́ vậy, có thể là Ngũ Tổ đă Kiến Tánh khi c̣n là sa di.

 

Một bằng chứng hùng hồn là : sách vở Thiền Tông không hề ghi lại rằng Tứ Tổ có dạy Ngũ Tổ điều ǵ ! Một trường hợp cực kỳ đặc biệt ( Ngay Lục Tổ khi Kiến Tánh do câu."Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm"  th́ vẫn là , gián tiếp là đệ tử Ngũ-tổ , Lục Tổ nghe được câu đó, v́ Ngũ Tổ truyền bá pháp Kim Cang Công Truyền ). Cứ xem như là : Tứ Tổ coi như Ngũ Tổ đă Kiến tánh vậy, ngay từ đầu. 

 

 

VI) Ngũ Tổ đă Kiến Tánh khi c̣n là Tài Ṭng Đạo Giả ?

 

1) Tài Ṭng Đạo Giả

 

Trích Cao Tăng Dị Truyện :

{{ Huyện Hoàng mai phía đông tỉnh Hồ Bắc, có lưu truyền một câu truyện như vầy: "Tương truyền, Tứ Tổ Đạo Tín, truyền pháp ở Hoàng Mai. Có cư sĩ Trương Hoai Hoài ờ làng Trương Độ, trồng tùng ở núi Hoàng Mai sau chùa Tứ Tổ suốt sáu năm. được gọi là Tài Tùng Đạo Giả".Vào năm bảy mươi lăm tuổi, vị đạo nhân này đến Tổ Đạo Tín cầu pháp, mong được y bát và đại pháp. Tứ Tổ trầm tư một lúc rồi nói:

- Tuổi của ông đă cao như thế, có thể gánh vác gia nghiệp của Như Lai sao? Chẳng bằng đổi kiếp hăy trở lại.

Tài Tùng Đạo Giả đảnh lễ cáo từ

. . .

Sau khi từ giă Tứ Tổ mà đi, Tài Tùng Đạo từ núi Phá Ngạch hướng về Nam, đi khoảng ba mươi dặm, thấy mặt trời lặn, trời đă hoàng hôn, gặp một thiếu nữ đang giặt áo và rửa chén bát bên bờ sông, bèn đến vái chào và hỏi thăm đây là đâu. Thiếu nữ đáp:

- Đây là Chu gia trang, đất này tên là Trạc Cảng.

Tài Tùng Đạo Giả nghe nói xong, liền nhảy xuống sông tự vận. Thần hộ pháp liền đem hồn phách của Tài Tùng Đạo Giả hóa làm trái đào tiên, bỏ vào bát cơm mà thiếu nữ đang rửa.

Thiếu nữ tên Chu Phụng Thư, là con của Chu viên ngoại, thấy đào tiên mười phần ngon lành hấp dẫn, liền ăn ngay, chẳng ngờ từ đây có thai. Việc này vợ chồng viên ngoại sau khi biết được, cho rằng con gái không chồng mà chữa, làm bại hoại môn phong, nên nổi trận lôi đ́nh, trục xuất Phụng Thư ra khỏi nhà.  

}}

 

a) Cái thai của cô Chu Phụng Thư sau này là Ngũ Tổ.

 

b) Theo cuốn Tổ Thiền Tông , th́ đoạn đối đáp giữa Chu Phụng Thư Tài Tùng Đạo Giả là như sau :

{{ Tài Tùng Đạo Giả :

_Nhà cô gần xa, có vui ḷng cho tôi nghỉ nhờ được không ?

Cô Chu :

_Tôi không dám tự chuyên, mời ông vào hỏi cha mẹ tôi.

Tài Tùng Đạo Giả :

_Vậy cô có bằng ḷng không cho tôi biết ?

Cô Chu :

_Riêng tôi bằng ḷng.

Tài Tùng Đạo Giả nghe cô hứa chịu , bèn trở về núi, ngồi ngay thẳng viên tịch. }}

 

Theo đọan trên, th́ Tài Tùng Đạo Giả xin tá túc tức là xin được đầu thai vào bụng cô Chu. Và Tài Tùng Đạo Giả đă ngồi mà hóa chớ không nhảy xuống sông tự vận.

 

c) Theo đoạn đối đáp giữa Tài Ṭng Đạo Giả và Tứ Tổ th́ Tài Ṭng Đạo Giả đă Kiến Tánh : Tài Ṭng Đạo Giả đến gặp Tứ Tổ để xin Y Bát và Tứ Tổ bảo Tài Ṭng Đạo Giả đi đầu thai để trở về nhận ngôi Tổ !

 

 

2) Cậu bé trai của cô Chu Phụng Thư

 

Trích Cao Tăng Dị Truyện :

{{ . . . Phụng Thư có miệng khó thốt nên lời, đành phải xin ăn qua ngày. Không bao lâu cô sanh một đứa con, đời sống của hai mẹ con càng thêm khốn quẫn. Đúa bé v́ thiếu áo, thiếu cơm, từ bé thân thể đă mười phần ốm yếu, đến bảy tuổi mà chưa biết nói. Người mẹ đặt tên là Á Đồng (bé Câm).

Đời Tùy Dương đế niên hiệu đại Nghiệp thứ năm (609), gặp mùa gặt lúa, người mẹ dẫn Á Đông đi xin ăn trở về quê, qua nông thôn lượm mót những hạt lúa rơi trên đất. Người làng chê cười người mẹ, Á Đồng lớn tiếng hét thôi, trách mắng người làng không được vô lư. lần đầu tiên Á Đồng mở miệng nói, người mẹ vui mừng nước mắt rơi như mưa. Rồi dắt đứa bé về quê Trạc Cảng. Nhân đây, Trạc Cảng đời xưa, hiện tại có tên là Tân Khai Khẩu, ghi việc Á Đồng mở miệng lần đầu.

Người mẹ dắt Á Đồng về quê nhà xin ăn. Ngày nọ đến chùa Tứ Tổ, người trong chùa thấy mẹ con quần áo lam lũ, rất chán ghét, định đuổi ra khỏi cửa, vừa may Tứ Tổ Đạo Tín từ trong điện bước ra, thấy Á Đồng thông tuệ khả ái, bèn nói:

- Đáng tiếc con tuổi c̣n nhỏ quá, nếu không th́ có thể theo ta xuất gia làm tăng.

Á Đồng nghe xong nói:

- Lúc con già đến Sư chê con già, nhỏ đến lại chê con nhỏ.

Tứ Tổ sực nhớ chuyện cũ, biết đây là Tài Tùng Đạo Giả, đổi đời trở lại, bèn thuật rơ cho người mẹ, rồi giữ Á Đồng lại với ḿnh, xuống tóc đặt pháp danh là Hoằng Nhẫn. }}

 

3) Ngũ Tổ là thân sau của Tài Ṭng Đạo Giả 

 

Theo câu chuyện trên, Tài Ṭng Đạo Giả đă  Kiến Tánh , nghe lời Tứ Tổ đi đầu thai để . . . nhận ngôi Tổ ! và trở thành Ngũ Tổ .

Tài Ṭng Đạo Giả Kiến Tánh do đâu ? _Dĩ nhiên là do Kinh Kim Cang.

Tài Ṭng Đạo Giả là cư sĩ, măi đến năm bảy mươi lăm tuổi, mới xuất hiện, đến gặp Tứ Tổ ; điều này rất hợp với cách cư xử Thiền Tông.

 

( Trong chùa Ngũ Tổ có điện Thánh Mẫu, thờ mẹ của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn )

 

Chú thích :

Kinh Kim Cang là một phẩm trong bộ Kinh Đại Bát Nhă 600 quyển. Hầu hết mọi người đều biết là ngài Huyền Trang dịch Đại Bát Nhă ; thế nhưng Kinh Kim Cang mà chúng ta học đây là bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập, mấy trăm năm trước đó . Bởi thế, mặc dù ngài Huyền Trang đồng thời với Ngũ Tổ và Tài Ṭng Đạo Giả sống trước đó 75 năm, Tài Ṭng Đạo Giả vẫn có Kinh Kim Cang mà tu luyện !

*

*

* Lê Anh Chí *.

_____________

 

 

Kinh sách tham khảo

Kinh :

       Kinh Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh

       Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận

       Cuộc đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán

       Kinh Kim Cang, dịch giả Đoàn Trung C̣n

       Kinh Kim Cang, dịch giả Thích Trí Tịnh

       Kinh Kim Cang và Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú giải : Thích Huyền Vi

       Kinh Kim Cang, dịch giả Thích Duy Lực

       Kinh Kim Cang, dịch giả Thích Thiện Hoa

       Kinh Lăng Nghiêm,  dịch giả   Trí Độ và Tuệ Quang

       Kinh THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG, dịch giả Thích Nhẫn Tế

       Kinh Trường A Hàm,  dịch giả   Thích Thiện Siêu

       Kinh Vô Ngă Tướng,  dịch giả Phạm Kim Khánh

Ngữ Lục (đến đời Lục Tổ):

       Sáu cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên

       Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy Lực

       Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh Trực

       Chứng Đạo Ca, Huyền Giác,  dịch giả Trúc Thiên

Ngữ Lục (sau đời Lục Tổ):

       Bá Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy Lực

       Truyền Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy Lực

       Cội nguồn truyền thừa và phương pháp tu tŕ của thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền

       Chơn tâm trực thuyết, Phổ Chiếu

       Lâm Tế Ngữ Lục

       Thiền Đốn Ngộ, nhiều tác giả : Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành Kim, Oánh Sơn,  Hư Vân; dịch giả Thích Thanh Từ

       Tọa Thiền Luận, Đại Giác, dịch giả Như Hạnh

       Tu tâm quyết, Phổ Chiếu

Sách :

       Cao Tăng Dị Truyện, Hạnh Huệ biên dịch

       Tổ Thiền Tông, Thích Thanh Từ

       Thiền Đạo Tu Tập, Trương Trừng Cơ, dịch giả Như Hạnh

 

 

 

             Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com

        --------------------------------------------------------------

        * Trang Chính * M ụ c  L ụ c  * Đoản Luận * Thơ *

------------------------------------------------------------------------------

* Hộp Thư * Bài mới * Nối kết Trang Nhà Phật Pháp Việt Nam *

------------------------------------------------------------------------------