Tâm
Không chưa phải là chân lư
Lê Anh Chí
Dàn Bài :
I- Chứng Minh
II- Điều Kiện cần thiết
để đắc A La Hán
III- Kinh Lăng Nghiêm : Vài gương tu hành
IV- Tại sao các Thiền Sư cứ bàn về Tâm Không
V- Tâm Không chẳng phải là hư vô, tịch
diệt
VI- Bàn về Tâm
Không : vài thí dụ
VII- Đối Cảnh Không Tâm
VIII- Đối Cảnh Không Trụ
IX- Một
trường hợp " Vướng Không" trong Kinh Pháp Bảo Đàn
X- Tâm :
Không Tịch, Vắng Lặng, Rỗng Rang, Tĩnh Lặng,
Rỗng Lặng. . .
XI- Tánh
Không cũng chẳng phải là chân lư
XII- Kiến Tánh Thành Phật, muôn ngàn chứng
đắc
Theo kinh Pháp Hoa, pháp sư là người "vào
nhà Như Lai , mặc y Như Lai, ngồi ṭa Như Lai. Nhà
Như Lai là ḷng từ bi lớn với tất cả chúng
sinh. Y Như Lai là ḷng nhu ḥa nhẫn nhục. Ṭa Như Lai là
tất cả các pháp là không."
Ṭa Như Lai là tất cả các pháp là không !
Tất cả các pháp là không !
Tâm của ta cũng là không !
Tu Tâm Không là pháp tu thông dụng nhất của
Phật Pháp.
Vậy mà, Tâm Không chưa phải là
chân lư. . .
I - Chứng Minh
Tâm Không là Không.
Phật Tánh là Thường,
Lạc, Ngă, Tịnh. (Kinh
Đại Bát Niết Bàn )
Nên,
Tâm
Không chẳng phải là Phật Tánh
V́ Phật Tánh là chân lư
Nên, Tâm Không chưa phải là chân lư.
DPCM (Điều Phải Chứng Minh).
I I - Điều Kiện cần
thiết để đắc A La Hán
Tâm Không là điều kiện
cần thiết để đắc A La Hán :
Theo Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận,
nếu đắc được 4 Không sau đây :
Thân
Không
Tâm
Không
Tánh
Không
Pháp
Không
th́ đắc A La Hán.
Do đó, Tâm Không là
điều kiện cần thiết để đắc A
La Hán.
Thực ra, đắc Tâm Không
là đă đi được 90% đọan
đường :
đắc
Tâm Không th́ đă đắc
Thân Không
đắc
Tâm Không rồi th́ tu Tánh Không,
Pháp Không cũng dễ thôi.
I I I - Kinh Lăng Nghiêm : Vài
gương tu hành
Trong Kinh Lăng Nghiêm, các vị
Bồ Tát và Đại Đệ Tử của Phật có
bước ra tŕnh bày kinh
nghiệm chứng đắc A La Hán. Vài gương tu
hành có liên quan mật thiết đến "Không":
1) Ngài Đại Ca Diếp, quán pháp không tịch, đắc Diệt Thọ Tưởng
Định (DTTD) thành A La Hán .
2) Ông Chu Lợi Bàn Đặc
Ca, quán hơi thở, tâm được rỗng thông,
hoặc lậu tiêu hết, thành A La Hán .
3) Ông Tất Lăng Già Bà Ta, do quán gai độc,
Ngộ Thân Không Tâm Không, sau 21 ngày
hoặc lậu tiêu hết, thành A La Hán .
I V - Tại sao các Thiền Sư
cứ bàn về Tâm Không
Tâm Không chẳng phải là
Phật Tánh
Vậy mà các Thiền Sư
cứ bàn về Tâm Không, v́ :
1) Không thể nói hoài về
Phật Tánh
Nói hoài th́ nhàm, nhất là khi người nghe không
hiểu, không lănh hội được.
2) Trong nhiều trường
hợp, "Không" là đủ.
Nhất là khi xử thế
tiếp vật, dùng Tâm Không là
hay rồi.
Thiền sư Huyền
Giác :
Khéo
khéo "Tâm Không"
dụng !
3) Trong nhiều trường
hợp, "Không" là rất đẹp !
Nhất là khi xử dụng
để phủ nhận thế gian, phủ nhận
dục lạc thế gian, phủ nhận danh lợi
quyền uy thế gian. Trong những trường hợp
này, tiên gia, văn sĩ, thi nhân cũng "Tâm Không"
dụng !
Bài ca mở đầu
của Tam Quốc Chí, có câu :
Sông
xô, cát dập anh hùng,
Thị
phi thành bại cũng là . . .
không !!!
V - Tâm Không chẳng phải là hư
vô, tịch diệt
Tâm Không chẳng phải là
hư vô, tịch diệt ! Đây là một tiểu
đề, v́ vậy hơi cô đọng, diễn lại
cho rơ nghĩa :
Tâm
Không chẳng phải là hư vô, tịch diệt
tức là :
Khi
hành giả đạt được Tâm Không th́ Tâm của
hành giả chẳng phải là hư vô, tịch diệt,
chẳng phải là ḥan toàn không.
Điều này có thể
chứng minh được !
Chứng minh :
Tâm của hành giả
chẳng phải là ḥan toàn không
V́ Tâm của hành giả c̣n ít
nhất một vật : cái năng không
DPCM (Điều Phải Chứng Minh).
Đây không phải là
nhược điểm của Tâm Không, mà là điểm gần
với chân lư, một điểm son của Tâm Không.
VI- Bàn
về Tâm Không : vài thí dụ
Hầu hết các thiền sư đều :
Ca tụng Tâm Không
và ngược lại,
Nói cái giới
hạn của Tâm
Không.
A. Ca tụng Tâm Không.
1. Tâm Không nên
người không, cảnh không, vật không.
Hương Hải đại sư và vua Lê
Dụ Tông :
Một hôm vua Dụ Tông (Dụ Tông là con của
Hi-Tông, lúc này Hi-Tông làm Thái Thượng Hoàng) mời sư
vào cung lập đàn cầu tự và thưa hỏi
Phật Pháp nơi sư. Khi vua hỏi <Thế nào là ư
của Phật ? >, th́ sư trả lời :
Nhạn
quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ư
Thủy vô lưu ảnh
chi tâm
Dịch :
Nhạn vượt
trường không
Ảnh ch́m nước
lạnh
Nhạn không có ư để
dấu
Nước không có tâm
giữ ảnh
( Tác giả
bài thi kệ này không phải là Hương Hải TS :
trước ngài Hương Hải hơn 600 năm có
thiền sư nổi tiếng Trung Hoa, tên gọi là Thiên-Y
Nghĩa-Hoài đă nói bài thi-kệ này rồi ).
2. Hoàng Bá TS.
Trong
Truyền Tâm Pháp Yếu, Tổ Hoàng Bá hầu như chỉ
nói về Tâm Không :
Tâm Không là đạo !
B. Nói cái giới hạn của Tâm Không.
1.Tâm Không c̣n
cách biệt trùng quan
Cổ
Đức có nói rằng :
Chớ bảo Tâm Không là
đạo.
Tâm Không c̣n cách biệt trùng
quan !
Tâm Không c̣n
cách biệt trùng quan : chính là tựa đề của
bài viết này !
2. Hoàng Bá TS.
Trong
Truyền Tâm Pháp Yếu, Tổ Hoàng Bá hầu như chỉ
nói về Tâm Không.
Vậy mà,
ở phần cuối quyển, bàn về câu "Xưa nay Không
một vật " của Lục Tổ, Hoàng Bá nói : "Không
một vật cũng chẳng phải"
Ha !
Người đă Kiến
Tánh th́ nói Không cũng
đúng, nói Chẳng Không cũng đúng !
Người chưa
Kiến Tánh th́ không thế, nghe nói "không một vật" th́ nhất định là "không một vật" , nhất
định là Không.
Như sư Thần Tú,
v́ câu
"Xưa
nay Không
một vật " của Lục Tổ, nên sau này sư giảng đạo cũng
nhất định nói "không
một vật" , nhất
định nói Không.
Xem phần " Một
trường hợp Vướng Không trong Kinh Pháp Bảo Đàn "
3. Lục Tổ
Lục Tổ sau
khi giảng về
"tông" của kinh th́ có
nói tiếp:
"Người thế gian,
ngoài mê th́ dính tướng, trong mê th́ dính
Không"
Lục Tổ : "Chớ trầm không quán tịnh"
4. Bàng bạc trong các ngữ lục, các Tổ
sư đều khuyến cáo thiền sinh không
được <trầm không thủ tịch>.
<Trầm không> đây là đắm ch́m trong cảnh
giới không của định, < thủ tịch> là
không rời đươc cảnh tịch diệt của
thiền định, nhất là cảnh tịch diệt
của A La Hán.
Xem bài viết : " Thiền-tông chẳng tu
thiền-định "
VII-
Đối Cảnh Không Tâm
Dụng của Tâm Không là :
Đối
Cảnh Không Tâm
và
Tám gió thổi chẳng
động
Hai cái Dụng này thực ra chỉ là một.
1. Đối Cảnh Không Tâm
Vua Trần Nhân Tông có làm một bài thơ
thiền thất ngôn tứ tuyệt, trong bài phú Cư
Trần Lạc Đạo, kết thúc bằng câu :
Đối
cảnh vô tâm, mạc vấn thiền
(Đối
cảnh mà tâm không th́ khỏi hỏi thiền)
Bài thơ như sau :
Cư
trần lạc đạo thả tuỳ
duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo
hưu tầm mịch,
Đối
cảnh vô tâm, mạc vấn thiền
Dịch thơ :
Cư
trần lạc đạo, cứ tuỳ duyên,
Hễ
đói th́ ăn, mệt ngủ liền-
Trong nhà sẵn báu, thôi t́m
kiếm -
Đối
cảnh tâm không, khỏi hỏi thiền !
Câu
cuối cùng "Đối
cảnh vô tâm, mạc vấn thiền" rất được
Phật Tử Việt Nam mến chuộng, coi như là
phương châm của sự tu hành. Có nhiều
người tưởng lầm rằng đó là mục đích
của Thiền Tông.
Câu "Đối
cảnh vô tâm, mạc vấn thiền" này chẳng phải
của vua Trần Nhân Tông. HT Hư Vân có kể
rằng : Khi đắc phép phi hành, Tiên Lữ
Đồng Tân bay đến lầu chuông chùa ở Lô
Sơn, đề bài thơ :
Một ngày an nhàn thân tự
tại
Sáu căn ḥa hợp báo b́nh an
Đan điền có vật
quí
Ngưng vấn đạo,
Đối cảnh vô tâm,
mạc vấn thiền !
Lữ Đồng Tân đề bài thơ này
khoảng 200 năm trước vua Trần Nhân Tông.
Tiên gia cũng biết "Đối cảnh vô tâm" !
2. Tám gió thổi chẳng
động
Tám gió là : tài (tài lợi),
suy (hao), hủy (hủy nhục), dự (đề cao),
xưng (khen), cơ (chê), khổ (khổ đau), lạc
(vui).
Xin lưu ư : Nhị
Thừa cũng có "tám gió thổi chẳng động" ;
nhưng họ không dùng chữ "tám gió ".
Đối Cảnh Không Tâm và "tám
gió thổi chẳng động" là cách xử thế tiếp
vật của con người giải thoát của mọi
pháp môn, chớ chẳng riêng ǵ Thiền Tông !
Một khi Thể (Tâm
Không) chưa phải là chân lư, th́ Dụng (Đối Cảnh Không Tâm và "tám gió thổi chẳng
động") cũng chưa phải là chân lư.
Bài thơ thiền thất ngôn tứ tuyệt
trên đây của vua Trần Nhân Tông vẫn là thơ
Thiền (Thiền của
Thiền Tông ) v́ câu thứ ba :
Trong nhà sẵn báu, thôi t́m
kiếm -
Báu đây là Phật Tánh, nhà
đây là Tâm ; thôi t́m kiếm nên vui, nhàn hạ. Cũng
có ư rằng tác giả đă Kiến Tánh !
VIII-
Đối Cảnh Không Trụ
Chẳng phải Đối Cảnh Không Tâm
Mà là : Đối Cảnh Không Trụ
có thế, mới đúng là
Thiền Tông.
Lục Tổ có bàn về
việc này. Như Vô Niệm chẳng phải là dứt
hết, không c̣n một niệm, mà là Niệm mà Không Trụ.
Nhưng, đối với
Thiền Tông, sự xử thế tiếp vật là Đối Cảnh Không Tâm hay Đối Cảnh Không
Trụ th́ chỉ là một chi tiết, đại khái
cũng thế thôi, không quan trọng. Cái quan trọng là
mục đích.
Mục đích là sự
Kiến Tánh !
Kiến Tánh
là chứng ngộ Bản Thể của Tâm .
C̣n Đối
Cảnh Không Tâm hay "tám gió
thổi chẳng động" là Dụng, chẳng
quan hệ, sao cũng xong !
Đối với Thiền
Tông, đạt được những Dụng này
chẳng phải là đắc đạo !
IX- Một trường hợp "
Vướng Không"
trong
Kinh Pháp Bảo Đàn
Câu chuyện Vướng
Không:
Tăng Trí Thường,
một hôm
đến tham lễ Lục Tổ, Sư (Lục Tổ) hỏi:
Ông từ đâu đến, muốn
cầu việc ǵ? Đáp: Đệ tử gần đây đến núi Bạch Phong ở Hồng Châu lễ Hoà Thượng Đại Thông
(Sư Thần Tú), nhờ
chỉ dạy cái diệu nghiă kiến tánh thành
Phật, nhưng chưa hết nghi ngờ, nên từ
xa đến đảnh
lễ, mong Hoà Thượng khai thị. Sư hỏi: Hoà Thượng Đại Thông nói thế nào?
Đáp: Trí Thường đến đó
trải qua ba tháng chưa được chỉ dạy, trong ḷng tha thiết
v́ Pháp, nên một hôm
vào trượng
thất hỏi Thế nào
là bản tâm bản tánh
của Trí Thường? Ḥa Thượng hỏi: Ông thấy hư không chăng? Đáp: Thấy.
Hỏi: Ông thấy
hư không có tướng mạo chăng? Đáp: Hư không vô h́nh đâu
có tướng
mạo! Ḥa Thượng nói: Bản tánh của Ông cũng
như hư không, chẳng có một
vật để thấy gọi là chánh kiến, chẳng có một vật
để biết gọi là chơn tri, chẳng có xanh vàng
dài ngắn, chỉ thấy bổn nguyên thanh tịnh,
giác thể sáng tṛn, gọi
là kiến tánh thành Phật, cũng gọi là tri kiến của Như Lai. Đệ tử dù nghe nói
như vậy mà tâm c̣n
chưa lănh hội, xin Hoà
Thượng khai thị.
Lục Tổ dạy bằng
bài kệ, mà hai câu đầu là :
Không
thấy pháp c̣n chấp thấy "Không" !
Cũng
như mây án mặt trời đông !
(T.
Minh Trực dịch)
Sư Trí Thường nghe xong bài
kệ th́ tâm ư suốt thông.
Lời
Bàn :
Sư Thần Tú, v́
câu "Xưa nay Không
một vật " trong bài
kệ của Lục Tổ, nên sư tuởng rằng Kiến Tánh là thấy
"không một
vật" , là thấy Không.
C̣n Sư Trí Thường đem những lời dạy này của Thần Tú mà
hỏi Lục
Tổ, quả là găi đúng
chỗ ngứa của Lục Tổ.
Như mọi người
biết, Lục Tổ do "Không
trụ vào đâu cả" mà Kiến Tánh. Cái sở
ngộ này cũng chính là chỗ sở trường.
Thần Tú hiểu
lầm "Xưa nay Không một vật " nên Vướng Không, mà
dạy người Vướng Không.
Sự chỉ dẫn của
Lục Tổ rất là tự nhiên, tất nhiên, ngài chỉ
cần nói cái sở
ngộ :
"Không trụ vào đâu cả ! "
chớ
chẳng phải là
"trụ vào không"
X- Tâm :
Không Tịch, Vắng Lặng, Rỗng Rang, Tĩnh Lặng,
Rỗng Lặng. . .
Tâm Không chưa phải là chân lư.
Nên,
Những tâm suưt soát Tâm
Không như Không Tịch, Vắng Lặng, Rỗng Rang,
Tĩnh Lặng, Rỗng Lặng vv. . . đều chẳng
phải là chân lư.
XI- Tánh
Không cũng chẳng phải là chân lư
Tâm Không chưa phải là chân lư. Tựa như
thế, Tánh Không cũng chẳng
phải là chân lư. Lập lại cái Chứng Minh trên :
Tánh Không là Không.
Phật Tánh là Thường,
Lạc, Ngă, Tịnh. (Kinh
Đại Bát Niết Bàn )
Nên,
Tánh
Không chẳng phải là Phật Tánh
V́ Phật Tánh là chân lư
Nên Tánh Không chẳng phải là
chân lư.
DPCM .
Nhắc lại và nói thêm :
Theo Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận,
nếu đắc được 4 Không sau đây :
Thân
Không
Tâm
Không
Tánh
Không
Pháp
Không
th́ đắc A La Hán.
Tâm Không Tánh Không là điều
kiện cần thiết để đắc A La Hán.
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (dịch
giả Thích Trí Tịnh), Phật nói :
Thinh Văn, Duyên Giác v́
định lực nhiều nên không thấy Phật
Tánh !
Tức
là :
A La Hán không thấy Phật Tánh !
Phật Tánh là Thường,
Lạc, Ngă, Tịnh, là Đại
Niết Bàn, là Niết Bàn của Phật.
Tâm Không là điều kiện
cần để đắc A
La Hán.
Phật Tánh là Đại Niết Bàn, là điều kiện cần ( và đủ ) để
thành Phật.
Sự khác biệt, hơn kém
giữa Phật Tánh và Tâm Không thật rơ ràng lắm vậy.
Tánh Không là điều
kiện cần để đắc A La Hán.
Phật Tánh là Đại Niết Bàn, là điều kiện cần ( và đủ ) để
thành Phật.
Sự khác biệt, hơn kém
giữa Phật Tánh và Tánh Không thật rơ ràng lắm
vậy.
Xin xem bài viết Kiến Tánh Thành Phật.
XII-
Kiến Tánh Thành Phật, muôn ngàn chứng đắc
Đây là một tiểu
đề của bài Kiến
Tánh Thành Phật.
Sau khi Kiến Tánh, người tu hành có thể chứng đắc muôn ngàn chánh định, chánh quán
-một cách dễ dàng và lẹ làng. Gọi là " dễ
dàng và lẹ làng ", v́ so sánh với người
thường : người thường chứng
đắc một pháp môn đă là khó, đằng này, có
thể có muôn ngàn chứng đắc !
Sau đây, riêng nói về
những chứng đắc liên quan đến Tâm Không :
Phật Tánh là Thường,
Lạc, Ngă, Tịnh.
Kiến Tánh là
chứng ngộ Phật Tánh, là chứng ngộ
Thường, Lạc, Ngă, Tịnh.
Nói riêng ra th́,
Đă Kiến Tánh th́ đă chứng ngộ
Thường và Tịnh.
Những tâm như Tâm Không , Tâm Không Tịch, Tâm Vắng
Lặng, Tâm Rỗng Rang, Tâm Tĩnh Lặng, Tâm Rỗng
Lặng . . . đều do Thường
và Tịnh biến hiện
Nên sau khi Kiến Tánh ta có
thể chứng Tâm Không , Tâm Không Tịch, Tâm Vắng
Lặng, Tâm Rỗng Rang, Tâm Tĩnh Lặng, Tâm Rỗng
Lặng . . . một cách dễ dàng, nếu muốn.
Nói " nếu
muốn " bởi v́ một khi được Thường, Lạc, Ngă, Tịnh, th́ rất nhiều
người chẳng để ư ǵ đến Không, Không
Tịch, Vắng Lặng, Rỗng Rang, Tĩnh Lặng,
Rỗng Lặng . . . làm ǵ !
----- ------ ----
----
Tâm Không rất gần với đạo quả
A La Hán.
Tâm Không rất thanh tao, thoát tục !
Tâm Không rất diệu kỳ.
Cái Dụng của Tâm Không là Đối Cảnh Không Tâm.
(Diệu kỳ hơn nữa là : Đối
Cảnh Không Trụ).
Tâm Không, Tánh Không chẳng
phải là chân lư :
Tâm Không, Tánh Không chưa
phải là Phật Tánh, chưa phải là Chân Như, chưa
phải là Đại Niết Bàn, chưa phải là Phật
của Niết Bàn, chưa phải là Niết Bàn của
Phật.
Lê Anh Chí.
------------------------------------------------------------------
* Trang Chính * M ụ c L ụ c * Đoản Luận
* Thơ *
------------------------------------------------------------------