Nhân Duyên Nhân Quả, những điều trông thấy . . .

 

                        Lê Anh Chí

 

1.  Nhân Lành Quả Lành

2.  Duyên Lành Quả Ác

3.  Duyên Ác Quả Lành

4.  Mạnh được yếu thua

5. Tà thắng Chánh

6. Hiểu lầm Phật Pháp : Khoe Phúc

7. Hiểu lầm Phật Pháp : Chê ác nghiệp của người

8. Hiểu lầm Phật Pháp : Thấy chết không cứu

9. Hưởng Phúc, Phúc Tiêu

10. Khư khư ḿnh buộc lấy ḿnh vào trong

11. Quả báo chẳng nhăn tiền

12. Chuyển duyên ác

13. Bồi đắp Duyên Lành

14. Gieo nhân lành

15. Bồ Tát sợ nhân chúng sanh sợ quả

16. Làm chủ lấy tâm ḿnh

17. Pháp Vô Ngă : v́ nhân duyên sinh

18. Vọng Tâm Vô Ngă 

19. Vô Ngă và Tâm Không

Hiểu lầm chữ Vô Ngă 

Không Chấp Ngă : v́ đă đắc Thân Không, Tâm Không

20. Không lầm nhân quả !

21. Tánh Không : vạn pháp do nhân duyên sinh

22. Phật Tánh chẳng do nhân duyên sinh

23. Vạn Pháp do tâm tạo

24. Phật Pháp là Đại B́nh Đẳng

 

 

Nhân Duyên Nhân Quả . . . bể dâu,

những điều trông thấy mà đau đớn ḷng !

Bài này viết về những điều thường trông thấy, những điều thường nghe thấy, về Nhân Duyên Nhân Quả .

Cũng có những điều ít nghe thấy. . .

 

 

1.  Nhân Lành Quả Lành

 

Nhân Lành th́ Quả Lành.

Nhân Ác th́ Quả Ác.

Đây là định luật nhân quả của nhà Phật. Tưởng không cần bàn luận thêm ; ghi lại ở đây cho rơ ràng và để mở màn cho phần sau :

 

 

2.  Duyên Lành Quả Ác

 

Duyên Lành Quả Ác. Duyên Lành chớ chẳng phải Nhân Lành !

Việc này xảy ra rất thường. Đó là v́ :

        Duyên Lành mà lại gieo Nhân Ác -à Quả Ác

Thí dụ :

Một người nhờ Duyên Lành tu hành theo Phật, đắc Tứ Thiền. Không những thế, vừa đắc Tứ Thiền liền có thần thông, v́ những kiếp trước đă luyện thần thông. V́ đắc Tứ Thiền và  có thần thông, thế nên tưởng rằng đă chứng A La Hán rồi lạc vào đường tà !

Xưa nay, việc này diễn ra hoài ! Nổi tiếng nhất là Devadatta, ông này đắc Tứ Thiền liền có Thần Túc Thông, tưởng rằng đă thành Phật, ông ta đ̣i thay Phật làm giáo chủ !

Duyên Lành mà Quả Ác !

 

 

3.  Duyên Ác Quả Lành

 

Cũng như trên, Duyên Ác có thể được Quả Lành :

        Duyên Ác mà lại gieo Nhân Lành -à Quả Lành

 

4.  Mạnh được yếu thua

 

Đây là luật vật lư, mà cũng là luật nhân quả.

Mạnh th́ bao giờ cũng được, yếu th́ bao giờ cũng thua.

Thí dụ :

        Lấy ví dụ, mà mới nh́n vào thấy ngược lại : đó là cuộc khởi nghĩa của B́nh Định Vương Lê Lợi. Khi nhà vua mới khởi nghĩa chỉ có 1000 quân. Rơ ràng là quá yếu ! Thế nhưng, binh lực mạnh yếu c̣n tùy thuộc nhiều yếu tố :

        - mưu kế, chiến lược

        - dùng phục binh, kỳ binh, đánh nơi đường chật, nơi hiểm yếu

        - kiên tâm tŕ chí

        - kiên tâm tŕ chí và dũng lược của 18 người tráng sĩ đă cùng Vương kết nghĩa ở Lũng Nhai

        - thời gian : 10 năm

        Sau thời gian 10 năm và tập hợp những yếu tố trên, binh lực B́nh Định Vương trở nên mạnh hơn và B́nh Định Vương đại thắng !

        C̣n nếu lúc đầu đem 1000 quân mà bày trận đường đường đánh với đại quân của nhà Minh, th́ không sống sót được 1 giờ !

 

Mạnh th́ bao giờ cũng được, yếu th́ bao giờ cũng thua !

 

 

5. Tà thắng Chánh

 

Trong tiểu thuyết vơ hiệp, Chánh thường thường thắng Tà.

Trong cái bể khổ này, Tà thường thường thắng Chánh.

V́ người đời trong cơi Ta Bà này, hung dữ, gian xảo nên Tà thường mạnh hơn chánh ; v́ Tà thường mạnh hơn nên Tà thường thường thắng.

 

Nói Tà thường thường thắng Chánh, là nói trong giới hạn của một kiếp người.

Dĩ nhiên, trong lịch tŕnh luân hồi của vô lượng kiếp,

        Nhân Lành th́ Quả Lành

        Nhân Ác th́ Quả Ác

Nên, Chánh thắng Tà.

 

 

6. Hiểu lầm Phật Pháp : Khoe Phúc

 

Trong cái bể khổ này, người ta hay hiểu lầm Phật Pháp .

Cái hiểu lầm lớn nhất là : lầm lẫn Phúc và Đức.

Nên khi Phúc (Duyên Lành) đến th́ tưởng là ta đây Đức lớn mà lại gieo Nhân Ác : khoe khoang, kiêu mạn. Do đó, ỷ địa vị ḿnh mà khinh kẻ thấp hèn, ỷ vào sức khoẻ ḿnh mà khinh người bệnh tật, ỷ vào cái may mắn của ḿnh mà khoe khoang rằng Đức lớn vv. . .

Đâu biết rằng Phúc đó là do nhân lành kiếp trước, có khi nhân gieo đă tỉ kiếp ngày xưa bây giờ mới trổ quả và cái Đức gieo nhân xưa đă nhoà nên  lại gieo Nhân Ác : khoe khoang, kiêu mạn.

 

 

 7. Hiểu lầm Phật Pháp : Chê ác nghiệp của người

 

Cái hiểu lầm lớn thứ nh́ là : chỉ thấy ác nghiệp của người.

Thế nên, thấy người bệnh tật, nghèo, khổ th́ chê. Chê rằng :

        - sao mà nghiệp nặng vậy !

        - tu sai rồi, tu sao mà bịnh hoài !

Sự thực th́ ngay đến Đức Như Lai cũng đă từng : ăn lúa ngựa mấy ngày, mắc bịnh. Khi Phật bị bịnh ở thành Vương Xá th́ Thần Y Phật Tử  là Sĩ Hoa Ca trị bịnh (Sĩ Hoa Ca cũng là ngự y), c̣n ở nơi khác th́ ngài A Nan phải đi t́m thuốc. Kinh Duy Ma Cật : đó là Phật thị hiện bịnh. Nói Phật thị hiện bịnh là v́ Phật có thể dùng thần thông, tự chữa cho hết bịnh. Nhưng quả Phật có bị bịnh và sở dĩ Phật thị hiện bịnh là v́ Như Lai muốn dạy rằng người đắc đạo cũng có thể bị bịnh như thường.

Các Đại Đệ Tử của Phật cũng  mắc bịnh và chịu ác nghiệp : Xá Lợi Phất nằm dài v́ kiết lỵ, trước khi viên tịch ; Mục Kiền Liên bị bọn côn đồ giết chết trong khi ngài là đệ nhất thần thông.

Chê ác nghiệp của người là :

        gieo nhân ác

        làm thương tổn ḷng từ bi

        vô minh

 

 

8. Hiểu lầm Phật Pháp : Thấy chết không cứu

 

Thấy người hoạn nạn không cứu, thấy chết không cứu

V́ muốn và sợ :

        Muốn người trả ác nghiệp

        Sợ xui

        Sợ lănh ác nghiệp của người

Những lời bào chữa trên thật là quái dị :

        Khi làm việc thiện, bỗng thấy cái xui, ác nghiệp kéo đến, th́ nên biết rằng : ta đă luân hồi từ vô lượng kiếp, cái ác nghiệp này là quả báo của một nhân ác từ xa xưa, có thể từ triệu kiếp về trước. Vả lại, nếu không cứu người th́ biết đâu cái ác nghiệp c̣n dữ hơn gấp trăm lần ?

        Không ai có thể lânh ác nghiệp của người khác dẫu cha con cũng không thể. Ông tu ông đặng bà tu bà đặng ; nghiẹp cũng thế : ta làm ta chịu.

        C̣n bảo để người trả ác nghiệp của họ : chỉ là ích kỷ, b́nh chân như vại trứơc đau khổ của người khác. Làm sao biết được người trả ác nghiệp đến đâu th́ hết ?

 

Không nên nh́n ác nghiệp của người ; chỉ nên thấy người hoạn nạn. Chỉ nên thực thi ḷng từ bi của nhà Phật.

Người Phật Tử chân chính th́ biết

                Thấy ai đói rách th́ thương,

        Đói thường cho mặc, rách thường cho ăn.

và tin rằng :

                Dẫu xây chín đợt phù đồ

        Không bằng làm phước cứu cho một người

Lẽ nào các Thích Tử lại thấy chết không cứu ????

 

Thấy người hoạn nạn không cứu là gây nên tội nghiệt, là gieo nhân ác. Tuy nhiên, cũng có trường hợp có thể không cứu : đó là khi việc làm quá nguy hiểm. Trong tiểu thuyết vơ hiệp, kẻ anh hùng xả thân v́ đạo nghĩa ; nhưng trong cuộc đời, người Phật Tử chân chính   không bắt buộc phải làm anh hùng, không bắt buộc phải làm Bồ Tát xả thân,

Nhưng không dám cứu ngướ, th́ phải dám nhận thức rằng ta đức độ không đủ, chớ không nên bào chữa quái dị như trên.

 

 

9. Hưởng Phúc, Phúc Tiêu

 

Hưởng Phúc th́ Phúc Tiêu !

Chịu khổ th́ khổ diệt !

 

Đó là cách suy nghĩ chín chắn của người Phật Tử .

Người có phúc lớn, thường nghĩ rằng có phúc hoài không bao giờ dứt ; nên  khoe khoang, kiêu mạn và làm ác. Các bạo chúa xưa nay đều như vậy. Nhưng rồi , Phúc Tiêu, phải chết, chết xuống địa ngục, không biết ngày nào lên được trần gian !

 

 

10. Khư khư ḿnh buộc lấy ḿnh vào trong

 

V́ chúng ta luân hồi  từ vô lượng kiếp, nên duyên nghiệp rất nặng. Thường, 90% sự việc xảy đến, đều do nghiệp, mà chúng ta không thể làm chủ được. Do đó, có nhiều người tin chặt ( và hiểu lầm) nhân duyên : họ bảo rằng chỉ có nhân duyên thôi, con người không thể canh cải được ǵ.

Thực ra, đó là tin chặt vào duyên nghiệp , chớ chẳng phải nhân duyên !

Cái đó gọi là :

        Khư khư ḿnh buộc lấy ḿnh vào trong.

Tức là :

        Khư khư ḿnh buộc lấy ḿnh vào trong, trong ṿng duyên nghiệp.

 

Đó là tin chặt vào duyên nghiệp, bởi v́ "nhân duyên" có chữ "nhân" : khi Duyên Lành, Duyên Ác đến , ta có thể gieo Nhân và do đó có thể canh cải được.

Không những thế, lúc nào ta cũng thể canh cải được Tâm của ta !

 

Đó mới là :

        nhân duyên

Cũng c̣n có chữ là :

        nhân duyên tương tục !

 

Cái sự " Khư khư tự buộc trong ṿng duyên nghiệp " là sự hiểu lầm rất lớn về Phật Pháp.

 

 

11. Quả báo chẳng nhăn tiền

 

Làm điều thiện, đ̣i được quả báo tốt ngay lập tức !

Đây là tâm lư thường t́nh của con người !

Thế nên, khi quả báo tốt không đến th́ sanh tâm bực, khó chịu, rồi lư luận quẩn. Thí dụ : bảo rằng , như đă viết ở trên, giúp người th́ lânh ác nghiệp của người !

 

Dĩ nhiên ,

        Quả báo có khi nhăn tiền

        Quả báo thường chẳng nhăn tiền

 

 

12. Chuyển duyên ác

 

Người Phật Tử chân chánh th́ :

        Chuyển duyên ác

        Bồi đắp Duyên Lành

        Gieo nhân lành

 

Chuyển duyên ác :

Tùy duyên ác mà gieo nhân lành ; ngoài ra ta có thể quán ác nghiệp.

Thí dụ :

        Ác duyên là bịnh. Ta có thể :

        - quán bịnh : quán cái nóng lạnh, đau đớn và cả cái lúc sắp hôn mê

        - quán hơi thở ra vào

        - niệm Quán Thế Âm Bồ Tát

        - niệm Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai

        Dĩ nhiên, khi bịnh th́ phải uông thuốc. C̣n sự đau đớn, th́ có thể trị bằng ba định : Nhị Thiền, Tam Thiền và Không Định. Nhị Thiền biến sự đau đớn thành mừng vui,  Tam Thiền biến sự đau đớn thành vui và Không Định biến sự đau đớn thành không ! Vào một trong 3 định này, khi thấy hết đau có thể xả định làm việc khác, cái sự không đau có thể kéo dài 3 hay 4 giờ.   

        Xin nhớ cho rằng 3 định này không trị bịnh mà chỉ trị đau ; sau 3 hay 4 giờ : nếu bịnh nhẹ, cơ thể có thể tự chữa được th́ hết đau luôn ; bằng không th́ cái đau lại trở lại. Đại khái, nên dùng 3 định này trong khi chờ đợi thuốc.

 

Nếu ta không có thể quán ác nghiệp, v́ ác nghiệp quá nặng (như khi bịnh quá nặng) , lúc đó đành ráng giữ một niệm giác, niệm Phật (niệm thầm) và chịu đựng thôi !     

 

 

13. Bồi đắp Duyên Lành

 

Bồi đắp Duyên Lành bằng cách gieo thêm nhân lành. Làm cho Duyên Lành tăng trưởng, Làm cho Duyên Lành quảng đại, Làm cho Duyên Lành thù thắng !

 

Lấy thí dụ Chiêm Ngưỡng Xá Lợi, một ví dụ thời sự, v́ năm nay (2005), có nhiều vụ triển lăm Xá Lợi trên thế giới :

    Nhờ Duyên Lành được Chiêm Ngưỡng Xá Lợi của Như Lai mà không phải cố t́nh t́m kiếm. Ta có thể bồi đắp Duyên Lành bằng cách :

        chỉ dẫn, mách bảo người khác để họ được Chiêm Ngưỡng Xá Lợi

        trở lại Chiêm Ngưỡng Xá Lợi ( Chiêm Ngưỡng Xá Lợi đem lại nhiều phúc báu và mỗi lần Chiêm Ngưỡng mỗi thấy khác)

        không khoe khoang, kiêu mạn : không khoe khoang rằng phúc lớn, được Chiêm Ngưỡng Xá Lợi của Như Lai mà không phải cố t́nh t́m kiếm.  

        tán thán công đức Chiêm Ngưỡng Xá Lợi

        v.v.

 

 

14. Gieo nhân lành

 

Lúc nào (Duyên Ác, Duyên Lành, Duyên chẳng Ác chẳng Lành ), ta cũng có thể gieo nhân lành.

Gieo nhân lành hay nhất là tu hành.

 

 

15. Bồ Tát sợ nhân chúng sanh sợ quả

 

Nhân đây là nhân xấu, và quả đây là quả xấu.

Bồ Tát sợ nhân ác, v́ :

        trí tuệ : biết hành động của ḿnh là xấu hay tốt

        tự biết những hành động của ḿnh, chẳng vô ư thức.

Chúng sanh sợ quả xấu, v́ ngược lại trên :

        chẳng thấy nhân, chỉ biết quả

        vô ư thức nên làm càn

        dẫu tự biết những hành động của ḿnh là xấu vẫn cứ làm bừa đi (v́ lợi lộc chẳng hạn)

 

Trong " Bồ Tát sợ nhân chúng sanh sợ quả ", th́ 4 chữ đầu " Bồ Tát sợ nhân " chỉ là chữ đệm, v́ Bồ Tát chỉ gieo nhân lành, làm ǵ mà sợ nhân ?

Chính là chỉ nói " chúng sanh sợ quả ", v́ chúng sanh vô minh nên chỉ sợ quả xấu, c̣n nhân th́ cứ gieo bừa đi.

 

 

16. Làm chủ lấy tâm ḿnh

 

Lúc nào ta cũng có thể tự làm chủ lấy tâm ḿnh, bởi v́ lúc nào ta cũng có thể suy nghĩ ra sao cũng được.

Do đó mà ta có thể :

        gieo nhân lành

        tu hành

        giải thoát

        kiến tánh

 

 

17. Pháp Vô Ngă : v́ nhân duyên sinh

 

Vô Ngă có nhiều nghĩa.

Một nghĩa của Vô Ngă là không có Ngă, là không có tự tánh.

 

Các pháp do nhân duyên ḥa hợp nên có, nhân duyên ly tán nên không.

V́ vậy, vạn pháp không có tự tánh.

V́ vậy, vạn pháp là Vô Ngă.

 

 

18. Vọng Tâm Vô Ngă 

 

Cái mà chúng sinh gọi là Bản Ngă, Phật gọi là Vô Ngă.

Trong kinh Đại thừa, Phật gọi đó là Vọng Tâm.

 

Vọng Tâm Vô Ngă : v́ nhân duyên sinh

 

Từ vô lượng kiếp, ta trôi dạt luân hồi, bồi đắp cái Vọng Tâm.

Từ vô lượng kiếp, nhân duyên bồi đắp cái Vọng Tâm, cái mà chúng sinh gọi là Bản Ngă.

Cái " Bản Ngă " này do nhân duyên ḥa hợp nên có. Phật gọi là Vô Ngă.

Vọng Tâm là Vô Ngă. 

 

Vọng Tâm Vô Ngă : v́ chẳng phải là ta

 

Vô Ngă c̣n có nghĩa là "chẳng phải là ta". Đây là nghĩa chính yếu của chữ Vô Ngă .

Vọng Tâm là Vô Ngă : v́ Vọng Tâm chẳng phải là ta. Cái "chẳng phải là ta" này Phật gọi là Vô Ngă.

 

Kinh Ngăng, bài pháp thứ hai của Phật, nói điều này.

Bài pháp này giảng cho 5 anh em ông Kiều Trần Như.

 

Trích Kinh Ngăng :

 

Cùng một cách ấy, thọ (vedana), tưởng (sanna), hành (samkhara) thức (vinnana) đều ngă . Vậy như Tỳ Khưu nghĩ thế nào, thân này thường c̣n hay thường?
- Bạch Thế tôn, là thường (anicca).
- Cái thườngkhổ năo hay hạnh phúc?
- Bạch Thế tônkhổ năọ
- Vậy, hợp chăng nếu nghĩ đến cái thường, khổ năo tạm bợ với ư tưởng: Cái này của tôi, đâytôi, đâytự ngă của tôỉ
- Bạch Đức Thế Tôn, chắc chắn là không hợp .
- Cùng một thể ấy, nầy hỡi các Tỳ Khưu, thọ, tưởng, hành, thức, đều thường khổ năọ Vậy, hợp chăng nếu nghĩ đến cái thường, khổ năo tạm bợ với ư tưởng: Cái này của tôi, đâytôi, đâytự ngă của tôi ?
- Bạch đức Thế tôn, chắc chắn là không hợp .
- Như vậy, này hỡi các Tỳ Khưu: Tất cả các sắc, dầu ở quá khứ, hiện tại hay tương lai, ở bên trong hayngoại cảnh, thô kịch hay vi tế, thấp hèn hay cao thượng, xa hay gần, phải được nhận thức theo thựcớng của -
- Cái này không phải của tôi, đây không phải là tôi, cái này không phải là tự ngă của tôị Tất cả các thọ, tưởng, hành, thức, dầu ở quá khứ, hiện tại hay tương lai, ở bên trong hayngoại cảnh, thô kịch hay vi tế, thấp hèn hay cao thượng, xa hay gần, phải được nhận thức theo thựcớng của -
- Cái này không phải của tôi, đây không phải là tôi, cái này không phải là tự ngă của tôị Bậc Thánh đệ tử đă thông suốt pháp học thấy vậy th́ nhàm chán sắc, thọ, tưởng, hành, thức, dứt bỏ, không luyến ái những không đáng ưa thích do sự dứt bỏ ấy, được giải thoát. Rồi tri kiến trở nên sáng tỏ -

 

Chú Thích :

        Vọng Tâm là Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

 

 

19. Vô Ngă và Tâm Không

 

Hiểu lầm chữ Vô Ngă 

 

Như trên đă nói :

        Cái mà chúng sinh gọi là Bản Ngă, Phật gọi là Vô Ngă.

        Trong kinh Đại thừa, Phật gọi đó là Vọng Tâm.

Người Phật Tử chân chính hiểu Phật Pháp, th́ không bàn về Bản Ngă nữa, v́ biết rằng đó là Vọng Tâm, đó là Vô Ngă.

 

Nhưng, nhiều người vẫn nói Bản Ngă, bàn Bản Ngă, dùng chữ Bản Ngă, v́ xem rằng Bản Ngă là cái Tâm chân thật của Ta !  Họ đưa Vô Ngă lên địa vị cao thăng, thậm chí c̣n xem Vô Ngă là trạng thái của Tâm của người đắc đạo ! Thậm chí, họ c̣n bảo rằng đắc đạo là "đạt Vô Ngă ".

Nói vậy là sai :

        Như "cuộc đời là bể khổ", đây là thực trạng của cuộc đời, dẫu làm Hoàng Đế hay ăn mày cũng đều khổ mà thôi ! Nhưng người đời thường không nghĩ vậy ; chỉ có một số người thấy rằng "cuộc đời là bể khổ" ; đâu có thể nói số người này là "đạt bể khổ" ???

        Vô Ngă là thực trạng của Tâm, của Thọ, Tưởng, Hành, Thức ; dẫu người đắc đạo  hay kẻ phàm phu cũng có (Vọng) Tâm là Vô Ngă ; đâu có thể nói người đắc đạo  là "đạt Vô Ngă " ?

 

Tuy nhiên, người ta dùng lầm chữ Vô Ngă như vậy khá nhiều ; do đó, chiều ư người đời, ta lại thêm một định nghĩa khác của Vô Ngă . . . 

 

 

Không Chấp Ngă : v́ đă đắc Thân Không, Tâm Không

 

Do những điều trên,

        Vô Ngă c̣n có nghĩa là "chẳng v́ ta", là chẳng chấp ngă, là "biết, thấy Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là Vô Ngă ", là "biết, thấy (Vọng) Tâm là Vô Ngă".

        Vô Ngă có nghĩa là chẳng chấp ngă, chẳng chấp thân này là ta, chẳng chấp tâm này (Vọng Tâm) là ta.

 

Một khi đă đắc Thân Không, Tâm Không th́ chẳng c̣n chấp thân này là ta, chẳng c̣n chấp tâm này (Vọng Tâm) là ta. Do đó : biết, thấy rằng Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là Vô Ngă.

 

Thân Không, Tâm Không là điều kiện cần thiết để đắc A La Hán :

 

Theo Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận, nếu đắc được 4 Không sau đây :

        Thân Không

        Tâm Không

        Tánh Không

        Pháp Không

th́ đắc A La Hán.

 

 

20. Không lầm nhân quả !

 

Người mới phát tâm tu hành hay kẻ tu hành đă có chứng đắc, đều nên và phải tin chắc vào nhân quả. Sự việc này được tỏ rơ bằng một câu chuyện Thiền Tông : câu chuyện ngài Bá Trượng độ hồ ly .

 

Trích từ quyển Bá Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy Lực:

Mỗi ngày Sư (Trượng ) thăng ṭa thường một cụ già theo chúng nghe phápMột hôm chúng tan rồi cụ không đi. Sư mới hỏi

"Người đứng đó là ai vậy?". 

Cụ già đáp

"Tôi chng phải là người. Vào đời Phật Ca Diếp trong quá khứ tôi đă từngnúi nầy. người tham học hỏi tôi : "Người đại tu hành c̣n lọt vào nhân quả không?". Tôi đáp : "Bất lạc nhân quả" (chng lọt vào nhân quả), nên bị đọa làm thân chồn năm trăm kiếp. Nay xin Ḥa Thượng cho tôi một chuyển ngữ để tôi được giải thoát thân chồn

nói

"Ông hỏi đi". 

Cụ già bèn hỏi

"Người đại tu hành c̣n lọt vào nhân quả không?". 

nói  : 

        Không lầm nhân quả !

Cụ già ngay đó đại ngộ, đảnh lễ rằng

"Tôi đă thoát thân chồn, nay xácsau núi, xin Sư y theo lệng mất thiêu cho". 

Sư bảo Duy Na đánh chuông báo cho đại chúng biết thọ trai xong xin mời tất cả đi đưa đámng chết. Đại chúng không ra sao. Sư dẫn chúng đến hang đá phía sau núi lấy gậy khều ra một con chồn chết rồi y theo thường lệ hỏa táng, như một ôngng viên tịch

 

Chú Thích :

Trong đoạn trích kể trên (từ quyển Bá Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy Lực), tôi có sửa 4 chữ ; đó là câu trả lời của ngài Bá Trượng, cho cụ già :

        Không lầm nhân quả !

( Dịch chữ : Bất muội nhân quả ! )

Nguyên văn của dịch giả :

        nhân quả rơ ràng !

Bốn chữ Không lầm nhân quả này, trích từ quyển Thiền Đốn Ngộ, dịch giả Thích Thanh Từ.

 

 

21. Tánh Không : vạn pháp do nhân duyên sinh

 

Các pháp do nhân duyên ḥa hợp nên có, nhân duyên ly tán nên không.

V́ vậy, vạn pháp không có tự tánh.

V́ vậy, Tánh của vạn pháp là không.

Nói cách khác,

        Vạn pháp đều có  Tánh Không.

 

 

22. Phật Tánh chẳng do nhân duyên sinh

       

Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận :

        Tất cả chúng sinh

        Đều có Phật Tánh

        Xưa nay chẳng sinh

        Xưa nay chẳng diệt . . .

V́ Phật Tánh xưa nay chẳng sinh, xưa nay chẳng diệt

Nên Phật Tánh xưa nay chẳng sinh

Nên,

        Phật Tánh chẳng do nhân duyên sinh.

 

Đây là một sự kiện rất quan trọng trong Phật Giáo Đại Thừa nói chung và Thiền Tông nói riêng.

 

 

23. Vạn pháp do tâm tạo

 

        Vạn pháp do nhân duyên sinh

        Phật Tánh chẳng do nhân duyên sinh.

Khi Đức Như Lai nói "vạn pháp", th́ chữ  "pháp" này là ở ngoài Tâm, V́ Phật Pháp là Tâm Pháp , nên sự phân chia  " trong Tâm ngoài Pháp", là một ngụ ư thường dùng, hay dùng và phải dùng !

Nhất là Chân Tâm th́ ở ngoài nhân duyên .

(C̣n Vọng Tâm là Vô Ngă : v́ nhân duyên sinh)

 

Như trên đă nói,

        Vạn pháp do nhân duyên sinh

Phật Pháp c̣n có câu :

        Vạn pháp do tâm tạo

Tâm hay nhân duyên ?  -Tâm !

Phật Pháp là Tâm Pháp , hơn nữa, Phật Tánh chẳng do nhân duyên sinh, nên ưu tiên dành cho :

        Vạn pháp do tâm tạo

Tuy thế, "Vạn pháp do nhân duyên sinh" vẫn đúng : chỉ cần trong chữ Nhân của " Vạn pháp do nhân duyên sinh " , ta nhớ rằng có Tâm, là được ! (Phật Tánh chỉ có thể là Nhân, chẳng có thể là Quả).

 

Trích Kinh :

Kinh Đại Thừa nói nhiều về "muôn sự tại tâm", Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận : " . . . Tâm làm ra thiên đàng, Tâm làm ra địa ngục, Tâm làm ra Phật, Tâm làm ra chúng sinh . . ."

Nhị Thừa cũng có nói như vậy, nhưng dưới một h́nh thức khác, Kinh Trường A Hàm, quyển Kiên Cố : "Thức diệt th́ tứ đại diệt, thô tế tốt xấu đều diệt" ( Thức là một phần của Tâm ).

 

 

24. Phật Pháp là Đại B́nh Đẳng

 

        Tất cả chúng sinh

        Đều có Phật Tánh

        Xưa nay chẳng sinh

        Xưa nay chẳng diệt . . .

Phật Tánh chẳng hề sinh và chẳng bao giờ diệt . ( V́ Phật Tánh chẳng hề sinh cho nên sẽ chẳng bao giờ bị diệt ). Phật Tánh của tất cả chúng sinh đều chẳng sinh , chẳng diệt. Đại B́nh Đẳng !

Phật Tánh của tất cả chúng sinh đều b́nh đẳng với chư Phật, không khác : đều là Thường, Lạc, Ngă, Tịnh. (Kinh Đại Bát Niết Bàn ). Phật Tánh là Chân Ngă, Chân Ngă này có Thường, Lạc, Tịnh. Chân Ngă chứ chẳng phải là Đại Ngă v́ nói đến Đại Ngă là nói đến Tiểu Ngă, trong khi Phật Tánh của tất cả chúng sinh đều b́nh đẳng với chư Phật. Chân Ngă chẳng phải là Đại Ngă cũng chẳng phải là Tiểu Ngă.

Phật Tánh là Đại B́nh Đẳng.

Do đó,

        Phật Pháp là Đại B́nh Đẳng.

 

Đối chiếu với các tôn giáo thuộc Độc Thần Giáo :

        Trong Độc Thần Giáo , tin Ông Thần Duy Nhất (sang Việt Nam, Ông Thần Duy Nhất  được gọi là Thượng Đế) th́ được lên Thiên Đàng, không tin th́ xuống hoả ngục măi măi . Linh hồn là vĩnh cửu : John Smith sẽ măi măi là John Smith, sẽ vĩnh viễn là đàn ông, sẽ vĩnh viễn là da trắng, sẽ vĩnh viễn là người dân Anh, sẽ măi măi là chúng sinh  ; chỉ có Ông Thần Duy Nhất  là độc tôn, là Ông Thần, là Duy Nhất.

        Ông Thần Duy Nhất sinh ra tất cả chúng sinh ; chỉ có Ông Thần Duy Nhất là chẳng ai sinh ra hết.  tất cả chúng sinh đều phụ thuộc vào một người . ( C̣n một vấn đề nữa là : linh hồn do Ông Thần Duy Nhất sinh ra, như vậy, linh hồn có thể bị Ông Thần Duy Nhất diệt ! )

        Độc Thần Giáo thật là Bất B́nh Đẳng.

 

Xin nhắc lại :

        Phật Tánh của tất cả chúng sinh đều chẳng sinh , chẳng diệt. Đại B́nh Đẳng !

        Phật Tánh của tất cả chúng sinh đều b́nh đẳng với chư Phật. và chúng sinh có thể thành Phật.

 

Thế nên,

        Phật Tánh là Đại B́nh Đẳng.

        Phật Pháp là Đại B́nh Đẳng.

 

Phật Pháp là Đại B́nh Đẳng c̣n ở những chỗ khác nữa, nhưng trong bài viết về Nhân Duyên Nhân Quả này, xin tạm dừng ở đây. Dẫu sao, chỗ Đại B́nh Đẳng này là chỗ gốc v́ là Nhân của Nhân Duyên con người, v́ là Nhân của nguồn gốc con người.

 

-- - -- -- - - - -

 

Bài đoản luận này thuộc về Phật Pháp Cơ Bản, gồm  24 đề mục.

Một số đề mục có thể gom lại thành đề mục lớn. Ví dụ : đề mục " Hiểu lầm Phật Pháp : Chê ác nghiệp của người " có thể thành tiểu mục của " Hiểu lầm Phật Pháp  ". Thế nhưng, tôi vẫn để làm đề mục riêng v́ sự quan trọng của nó trong những điều trông thấy về Nhân Duyên Nhân Quả.

Có đến 21 đề mục là thuộc về Phật Pháp Cơ Bản . Đề mục 20 , " Không lầm nhân quả ! " là một câu chuyện Thiền Tông, nhưng cái minh triết của  câu chuyện có thể áp dụng cho cả Nhị Thừa lẫn Đại Thừa.

Chỉ có 3 đề mục cuối, số 22, 23, 24 là Đại Thừa. Đề mục cuối, số 24, quan trọng

v́ nói về Nhân của Nhân Duyên con người.

 

Lê Anh Chí.

-------------------------------------------------------------

Kinh sách tham khảo

Kinh :

        Kinh Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh

        Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận

        Kinh Dược Sư

        Kinh Trường A Hàm,  dịch giả   Thích Thiện Siêu

        Kinh Ngăng,  dịch giả Phạm Kim Khánh

Ngữ Lục :

        Bá Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy Lực

Sách :

        Cuộc đời Tôn Giả Xá Lợi Phất, Nguyễn Điều,

        Cuộc đời Tôn Giả Mục Kiền Liên, Nguyễn Điều,

 

------------------------------------------------------------------

* Trang Chính * M ụ c  L ụ c  * Đoản Luận * Thơ *

------------------------------------------------------------------